Sunday, August 2, 2015

Việt Nam né tránh trong vụ phát nhầm nhạc Trung Quốc?

Ở phút thứ 4'16" đến 4'30" khúc nhạc được tấu lên khi Chủ tịch nước Trương Tấn Sang bước lên bục phát biểu trong chương trình 'Khát vọng đoàn tụ' tối 27/7 tại Hà Nội.
Theo BQP, VOA-02.08.2015
Bộ Quốc phòng Việt Nam mới thông báo “xử lý nghiêm túc” nhóm thực hiện chương trình “Khát vọng đoàn tụ” vì “sử dụng một đoạn nhạc nước ngoài”.

Tuy nhiên, thông báo chính thức trên báo điện tử của Bộ này hôm 2/8 không có từ nào nói rằng đó là bản nhạc Trung Quốc.

Thông cáo có đoạn: “… Trong quá trình thực hiện chương trình truyền hình trực tiếp đã không kiểm soát được nội dung để xảy ra sai sót là sử dụng một đoạn nhạc nước ngoài vào trong chương trình. Cơ quan cấp trên có thẩm quyền đã tiến hành kỷ luật: Khiển trách đối với Ban Giám đốc Trung tâm Phát thanh - Truyền hình Quân đội và chỉ đạo xử lý nghiêm túc kíp thực hiện chương trình”.

Bản tin cũng cho biết rằng kịch bản chương trình nghệ thuật kỷ niệm Ngày Thương binh – liệt sỹ phát trực tiếp trên kênh VTV1 của Đài Truyền hình Việt Nam đã được “thẩm định, thông qua và được tiến hành sơ duyệt, tổng duyệt”.

Sự thừa nhận sai sót được đưa ra gần 10 ngày sau khi một đoạn trong bài hát “Ca ngợi tổ quốc” của Trung Quốc đã vang lên khi Chủ tịch nước Trương Tấn Sang lên đọc diễn văn khai mạc chương trình tại trụ sở Bộ Quốc phòng Việt Nam.

Ngoài vấn đề sử dụng bản nhạc được coi là “quốc ca thứ hai” của Trung Quốc, “Khát vọng đoàn tụ” thu hút sự chú ý của công chúng cũng như giới truyền thông vì “tái xuất” của Bộ trưởng Quốc phòng Phùng Quang Thanh sau thời gian chữa bệnh tại Pháp, trong bối cảnh có tin ông đã qua đời.

Thông báo “thừa nhận sai sót” trên đã vấp phải chỉ trích của nhiều người sử dụng mạng xã hội vì đã không nói tới đó là bản nhạc xuất xứ từ Trung Quốc.

Một người trong số đó là nhà nghiên cứu Nguyễn Xuân Diện từ Hà Nội:

“Họ chỉ nhận là sử dụng một đoạn nhạc của nước ngoài. Đây là một cách làm trốn tránh và một sự xuê xoa không thể chấp nhận được. Nước ngoài đây là nước nào? Đoạn nhạc đấy là đoạn nhạc nào? Họ không nói rõ. Việc đó vừa thể hiện một sự không dũng cảm của những người trong Bộ Quốc phòng. Chẳng qua xử lý như vậy vì dư luận làm căng quá.”

Ông Diện nói thêm rằng sự nhầm lẫn trên đã “làm dấy lên một sự căm giận của công chúng, đặc biệt là những người có tuổi, từng biết bài này ở thập kỷ 50 – 60 trước đây”.

Chính quyền trong nước thời gian qua đã nhiều lần bị chỉ trích vì dùng từ “tàu lạ”, thay vì đề cập cụ thể tàu Trung Quốc trong các vụ va chạm trên biển Đông.

TPP vẫn chưa thành công

Gia Minh, PGĐ Ban Việt ngữ2015-08-02  
Leaders_of_TPP_member_states.jpg
Lãnh đạo các nước thành viên TPP. AFP photo
Vòng đàm pháp mới nhất về Hiệp định Đối tác Xuyên Thái Bình Dương- TPP giữa 12 quốc gia trong đó có Việt Nam, kết thúc hôm ngày 1 tháng 8 mà vẫn không đạt được thống nhất mong đợi.
Nhân sự kiện này, Gia Minh hỏi chuyện giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Kinh tế & Chính sách- VERP, Đại học Kinh tế thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội, tiến sĩ Nguyễn Đức Thành. Trước hết ông đề cập đến một nguyên nhân gây trở ngại cho vòng đàm phán ở Hawaii vừa qua:
Cái khó nhất mà các nước phải vượt qua trở ngại là những nhóm lợi ích trong nước của họ để tiến tới khung thương mại tự do và sự thỏa hiệp giữa các nước. Mỗi lần lại nảy sinh những nhóm ngăn cản.
Hiện nay tôi đang mổ xẻ và phân tích các nhóm ở những nước đó như thế nào.
Gia Minh: Việt Nam cũng là một đối tác tham gia đàm phán, và trở ngại đối với Việt Nam là vấn đề gì?
Tiến sĩ Nguyễn Đức Thành: Đối với Việt Nam cũng có những loại trở ngại khác nhau. Hiện chúng tôi cũng đang xem lại vì sao đàm phán phải dừng lại, ở mức chi tiết chứ không phải nói chung chung. Hiện chúng tôi chưa làm xong, đang phải làm những việc khác nữa.
Gia Minh: Người ta cho rằng những nước như Việt Nam khi tham gia TPP sẽ có những cái lợi, đồng thời Việt Nam cũng phải ‘nâng cao’ lên để đáp ứng yêu cầu của TPP. Là người nghiên cứu, xin ông cho biết lại những lợi lớn nhất đối với Việt Nam ( khi gia nhập TPP) và những việc làm để đáp ứng lại với TPP?
Tiến sĩ Nguyễn Đức Thành: Cái lợi nhất đối với Việt Nam là sự hội nhập thị trường, những cơ hội để xuất khẩu, để hợp tác, để đầu tư trong tương lai.
Khó khăn nhất đối với Việt Nam (theo như kinh nghiệm vừa qua) chúng tôi thấy là làm sao đáp ứng được chính cơ hội đó. Bởi vì nếu không đủ điều kiện thay đổi, điều kiện chuẩn bị nguồn lực hay điều kiện để dịch chuyển các nguồn lực để đáp ứng được nhu cầu đó thì thành ra ‘lợi bất cập hại’, thay vì là cơ hội lại trở thành gánh nặng lên nền kinh tế. Như thế sẽ khó khăn hơn cho doanh nghiệp và cho cả người trong nước. Nếu như không sắp xếp được nguồn lực, cũng như sắp xếp nguồn lực cho hiệu quả. Tức liên quan đến tổ chức lại nền sản xuất, tổ chức lại xã hội. Nó liên quan đến tất cả các vấn đề về hành chính, về thể chế, về môi trường kinh doanh, về dịch chuyển/tổ chức lại các nguồn lực, thị trường nguồn lực quan trọng của Việt Nam, những thị trường cơ bản như thị trường lao động, thị trường đất đai, thị trường vốn. Việt Nam cần phải thực hiện cải cách. Cơ bản là như thế thôi!
Cái khó nhất mà các nước phải vượt qua trở ngại là những nhóm lợi ích trong nước của họ để tiến tới khung thương mại tự do và sự thỏa hiệp giữa các nước. Mỗi lần lại nảy sinh những nhóm ngăn cản.
- Tiến sĩ Nguyễn Đức Thành
Nói chung là như vậy, nhưng cải cách như thế nảo, chi tiết như thế nào thì phải kỹ, cần phải có bàn bạc, phân tích để đưa ra những chính sách cụ thể hơn.
Gia Minh: Thời gian có quá gấp rút cho Việt Nam để tiến hành việc tổ chức và cải cách không, giả sử hiệp định TPP hình thành trong sang năm?
Tiến sĩ Nguyễn Đức Thành: Theo tôi hiểu TPP cũng dành thời gian cho các nước: mỗi nước có khung riêng. Tuy nhiên nước nào cải cách chậm thì cơ hội không đến sớm thôi.
Việt Nam cũng như các nước khác: mỗi nước đều có khó khăn riêng của mình trong cấu trúc để cải cách. Phải tự nỗ lực thôi nếu không thì cơ hội đến muộn hoặc sẽ bị mất thôi.
Gia Minh: Trong lần đàm phán này, Việt Nam có rút ra được bài học gì từ WTO trước đây?
Tiến sĩ Nguyễn Đức Thành: Về chi tiết của đàm phán tôi không nắm được, không theo dõi được để có thể so sánh. Thế nhưng kinh nghiệm lớn và chung về WTO thì tôi thấy rằng, như tôi vừa nói, là phải chuẩn bị cho được những điều kiện ở trong nước. Tất cả những hội nhập và hợp tác quốc tế đều tùy thuộc vào điều kiện ở trong nước. Cơ hội đã mở ra đồng đều và tương đối rộng rãi rồi; nhưng làm sao để chuyển hóa những cơ hội thành  lợi lộc hay phúc lợi cho doanh nghiệp hay cho người dân thì phụ thuộc vào cải cách trong nước mới có thể hội nhập đầy đủ được. Đó là cái lớn nhất mà WTO thì đến nay chúng ta thấy vẫn chưa được như mong muốn.
Đối với TPP qua bài học WTO thì chúng ta cần phải chuẩn bị kỹ hơn và thay đổi để tối đa hóa lợi ích của TPP.
VN cần làm gì?
Gia Minh: Vấn đề vĩ mô vừa được ông đề cập đến, còn các doanh nghiệp tư nhân vừa vả nhỏ ở trong nước khi đến xin lời khuyên vào lúc Việt Nam gia nhập những hiệp định đối tác lớn, ông có lời khuyên gì đối với họ?
Tiến sĩ Nguyễn Đức Thành: Doanh nghiệp của Việt Nam thì qui mô hơi nhỏ và đa phần là các doanh nghiệp nhỏ. Cơ hội thì mở ra nhiều nhưng tôi e ngại khả năng nắm bắt các cơ hội đó ( của các doanh nghiệp trong nước) và tình trạng doanh nghiệp nước khác xâm nhập nhiều hơn vào Việt Nam với tính cạnh tranh cao hơn nhiều. Do đó tôi cho rằng doanh nghiệp Việt Nam phải nâng cao tính cạnh tranh cũng như nâng cao năng lực của đội ngũ nhân lực và chất lượng sản phẩm. Tìn hiểu, nâng cao chất lượng để tránh những bất lợi trong quá trình cạnh tranh quốc tế mà họ tuân theo những chuẩn rất tốt.
Việt Nam cũng như các nước khác: mỗi nước đều có khó khăn riêng của mình trong cấu trúc để cải cách. Phải tự nỗ lực thôi nếu không thì cơ hội đến muộn hoặc sẽ bị mất thôi.
- Tiến sĩ Nguyễn Đức Thành
Nhìn chung các doanh nghiệp Việt Nam phải hiểu rõ hơn về các ‘sân chơi’, các nguyên tắc của ‘cuộc chơi’ để khả năng tốt hơn. Nhiều khi có những sản phẩm Việt Nam rất tốt nhưng do không đáp ứng được một số yêu cầu của các nước hay môi trường chung khiến cho sản phẩm không được thừa nhận.
Tôi nghĩ trong quá trình ‘tiến hóa’, các doanh nghiệp Việt Nam rất nhanh nhạy, nếu họ nắm bắt được những điều đó thì họ sẽ có con đường đi riêng, cách đi riêng của họ.
Gia Minh: Nhưng họ cũng còn cần sự hỗ trợ nào đó từ phía chính quyền Việt Nam?
Tiến sĩ Nguyễn Đức Thành: Đó là chắc chắn rồi vì doanh nghiệp Việt Nam qui mô nhỏ, manh múm và kinh nghiệm hội nhập thế giới không nhiều. Đó là tôi nói những doanh nghiệp trung bình, các đại doanh nghiệp ( của Việt Nam) cũng có khả năng hơn một chút thôi chứ không phải ưu việt lắm.
Thế còn hỗ trợ của Nhà nước trong môi trường tự do, hợp tác quốc tế như thế này thì theo tôi không nên nghĩ đến những hỗ trợ trực tiếp vì đó là tư duy kiểu cũ. Mà đây sự hỗ trợ lớn nhất của Nhà nước trong các lĩnh vực như thế này là sự hỗ trợ tạo dựng một môi trường kinh doanh lành mạnh, cung cấp thông tin, thực hiện luật pháp một cách công bằng. Đó là nền tảng cho các doanh nghiệp Việt Nam tự tiến hóa, tự phát triển trong kinh doanh, trong hội nhập quốc tế hiện nay.
Chúng ta đã không làm tốt trong một thời gian dài, kéo lùi sự phát triển, sự tiến hóa (như tôi vừa đề cập) của doanh nghiệp Việt Nam.
Tôi thấy việc làm hữu hiệu nhất để hỗ trợ các doanh nghiệp chính là những điều như vừa nêu, thay vì nghĩ đến những hỗ trợ trực tiếp về nguồn lực hay hỗ trợ trực tiếp. Điều đó không bao giờ xuể được mà chính phủ của Việt Nam hay bất cứ nhà nước nào khác nguồn lực rất hạn chế cần dành để làm việc khác.
Gia Minh: Chân thành cám ơn.
http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/new-tpp-nego-failed-n-wh-vn-prepared-gm-08022015090243.html/08022015-tpp-giaminh.mp3

Chiến dịch bắt lãnh đạo ngân hàng

Theo Người Việt-08-02- 2015 1:48:23 PM
Nghề nào nguy hiểm nhất?
Phạm Chí Dũng

Trong cuộc nhậu sôi nổi vào cuối Tháng Bảy, lãnh đạo một chi nhánh ngân hàng tỉnh thầm thì, “Sắp tới tôi cũng tính tìm đường rút cho êm. Gọn nhất là cứ lấy lý do sức khỏe mà từ nhiệm. Làm ăn thì đâu còn thời hoàng kim như hồi những năm 2010, 2011 muốn nâng hạ lãi suất bao nhiêu tùy ý. Ở lại bây giờ không phải đầu cũng phải tai. Bây giờ mà không hết sức che chắn có khi lại bị coi là ‘sân sau’ của mấy anh Hai, anh Ba, anh Tư, rồi coi chừng lại bị công an ‘chém’ như với mấy ông ngân hàng xây dựng hay Oceanbank vừa rồi...”

Lời ta thán ấy được thốt ra ngay vào lúc ông Cao Sỹ Kiêm từ nhiệm chủ tịch hội đồng quản trị Ðông Á Bank “vì lý do sức khỏe,” cho dù sức khỏe của ngân hàng này được coi là khá ổn do được “cơ cấu” bởi cổ phần của khối đảng. Một nhân vật khác trẻ hơn nhiều và có vẻ còn dồi dào xung lực nhưng cũng xin từ nhiệm nốt là chủ tịch hội đồng quản trị Eximbank Lê Hùng Dũng.


“Khai đao”


“Người giàu phải khóc” đang ứng với cơ sự điên đảo thời nay. Những người giàu của ngân hàng - giới mà từ lâu đã bị cả báo chí nhà nước xỏ xiên là “cá mập” bởi thói đời ngồi mát ăn bát vàng nhưng lại “thắt cổ” doanh nghiệp và người dân.

Vào Tháng Bảy năm ngoái, ba người giàu nổi đột biến của ngân hàng xây dựng đã bị bắt cùng lúc. Sau đó đến Tháng Mười, “doanh nhân thành đạt” Hà Văn Thắm của Ocean Bank cũng nối gót. Ðường vào trại giam của các nhân vật này còn được phủ đầy tin đồn về mối quan hệ mật thiết với giới lãnh đạo cao cấp.

Còn Tháng Bảy năm nay, Bộ Công An bắt một lúc 4 lãnh đạo ngân hàng, 2 người trong số đó thuộc về GP Bank - được dư luận xem là “sân sau” của một quan chức cấp cao. Vài ngày sau, Nguyễn Xuân Sơn - chủ tịch Petro Việt Nam và từng là nhân vật lãnh đạo của Ocean Bank nhưng vẫn được tung tăng trong cả năm qua, đã bị công an lôi ra từ bệnh viện Bạch Mai và tống vào trại tạm giam với tội “đồng phạm với Hà Văn Thắm.”

Một hình ảnh ấn tượng quá đỗi cũng được lôi ra: chỉ trước khi bị bắt 10 ngày, ông Nguyễn Xuân Sơn còn thung dung ký tá hợp tác với người Mỹ tại Washington, trước sự chứng kiến của Tổng Bí Thư Nguyễn Phú Trọng. Khó có thể hiểu khác hơn rằng sự kiện ông Sơn bị cách chức rồi tống thẳng vào trại giam là một sang chấn vỗ mặt người đứng đầu đảng.

Giới ngân hàng thêm một phen rúng động trong sang chấn của chiến dịch tống giam lãnh đạo nhà băng kể từ năm 2012. Nếu vào năm ngoái, bầu không khí được mô tả là “nín thở,” thì năm nay, cũng không khí ấy đang bị xem là “nghẹt thở.” Nếu cả một nhân vật quá quyền thế như Bầu Kiên ở ngân hàng ACB mà còn không “binh” được đường thoát, khó có nhà ngân hàng nào dám bảo đảm được số mệnh trót lọt cho mình trong thời buổi đầy nhiễu nhương tống tiễn này.

Một lần nữa từ sau sự kiện trang blog Chân Dung Quyền Lực vào đầu năm 2015, dư luận Việt Nam lại ồn lên về một cuộc quyết đấu nội bộ đã đến hồi “khai đao.” Ngay cả báo chí nhà nước, bất chấp rào chắn dựng lên của giới tuyên giáo, cũng phải bóng gió nói về “các ông chủ ngân hàng đang như ngồi trên lửa.”

Nhưng xem ra, “ngồi trên lửa” vẫn còn là cụm từ dung dị. “Lịch sử” năm 2014 đã bắt đầu lặp lại vào Tháng Bảy “bắt ngân hàng” trong năm nay, và nếu được tái hiện trọn vẹn thì từ đây đến cuối năm 2015, trước hội nghị trung ương 12 và kỳ họp Quốc Hội, sẽ còn một số lãnh đạo ngân hàng nữa phải “nhập kho.”


Nghề nào nguy hiểm nhất?


Không hiểu từ khi nào, ngân hàng bắt đầu bị xem là “nghề nguy hiểm.” Một số nhà phân tích bình dân còn đế thêm là trong tình cảnh số muốn chạy ra nhiều hơn kẻ muốn nhào vào này, chính cái nghề “chủ tịch hội đồng quản trị” của các tập đoàn nhà nước lỗ lã tan nát mới là nguy hiểm nhất.

Sau đó là giới ngân hàng.

Quả đúng như lời thì thầm của lãnh đạo chi nhánh ngân hàng trên bàn nhậu, không rớ vào thì thôi chứ đã rớ thì “trăm thằng trúng cả trăm” đều vi phạm pháp luật. Rồi cứ hàng đống tội danh vi luật ấy mà nâng qua điểm “lợi dụng chức vụ” lẫn “cố ý làm trái,” cộng thêm cái tội tày trời không có trong luật về chuyện ngân hàng này nọ là “sân sau” của những lãnh cao cấp nào đó, nhất là còn cung ứng hậu cần và hậu phương để các “anh ấy” đấu đá với nhau từ đây đến đại hội 12 của đảng... Khi ấy thì chỉ có chết!

Thật vậy, cứ nhìn vào những gì mà sự kiện trang blog Chân Dung Quyền Lực đã “diễn biến hòa bình” vào cuối năm 2014, đầu năm 2015 thì “không có gì là không thể” - tạm mượn cụm từ của Ðại Sứ Ted Osius khi nói về tương lai quan hệ Việt-Mỹ.
Ngân hàng - một trong những tiêu điểm mà Chân Dung Quyền Lực nhắm vào - làm cho người ta hoàn toàn có thể nhận thức rằng những nhân vật tự nguyện tham gia vào chiến dịch “sân sau” sẽ có số phận dao kiếm lơ lửng trên đầu. Thanh trừng chính trị đã được khởi sự bằng chiến dịch “thanh toán” nguồn thu nhập.

Nhưng báo chí nhà nước, bởi thói quen và não trạng “tự điều chỉnh” lâu năm, vẫn còn né tránh một nghề nguy hiểm - thậm chí là nguy hiểm nhất. Ðó là nghề “chính trị gia.”


“Thoát khỏi chính trường”


Không phải ngẫu nhiên mà chỉ mới từ tháng Tháng Năm, 2015 đến nay, đã có hàng loạt quan chức tự nguyện từ nhiệm “chờ nghỉ hưu”: Bí Thư Hội An Nguyễn Sự, Phạm Thế Tập thôi giữ chức bí thư thành ủy Hải Dương; Tô Văn Cường - Bí thư Huyện Ủy, chủ tịch Hội Ðồng Nhân Dân huyện Thường Tín; Nguyễn Văn Nguyệt - Bí thư Huyện Ủy, chủ tịch Hội Ðồng Nhân Dân huyện Sóc Sơn; Phạm Hùng Vỹ - Phó Bí thư Huyện ủy, chủ tịch Hội Ðồng Nhân Dân huyện Phú Xuyên; kể cả các phó chủ tịch Hội Ðồng Nhân Dân các quận, huyện: Ðông Anh, Phúc Thọ, Mê Linh, thị xã Sơn Tây, Ứng Hòa và quận Hai Bà Trưng cũng xin nghỉ hưu sớm.

Ðặc biệt, bí thư Tỉnh Ủy Quảng Nam - ông Lê Phước Thanh - vừa xin nghỉ hưu vì lý do “sức khỏe,” chỉ năm tháng sau khi giữ chức.

Trường hợp ông Thanh được xem là người có chức vụ đảng cao nhất nhằm “thoát khỏi chính trường.”

Nhưng xem ra chỉ có trường hợp tự nguyện xin nghỉ của ông Nguyễn Sự là còn để lại dấu ấn đồng cảm trong lòng dân chúng về một công bộc thật sự có tầm và có tâm.

Số còn lại, như lời bình giảng của dân gian, chẳng phải từ nhiệm bởi cao đạo tre già măng mọc, mà bởi nỗi sợ hãi bị diệt vong đang trùm lên tất cả. Hiện tượng này lại có thể dẫn đến một làn sóng rời bỏ quan trường ngày càng rộng và đi từ cấp thấp đến những cấp cao hơn, kể cả hàm bộ trưởng.

Nhưng trong bầu không khí như bị cô nén và nghẹt thở hiện thời, không chỉ những người làm chính trị chuyên nghiệp mà cả giới công an điều tra cũng bị coi là nghề nguy hiểm không kém. Sự ồn ào của dư luận về việc “phe này bắt người phe kia” tất có thể làm cho người ta hình dung về một kết cục khó có hậu của những bộ sắc phục khi tự nguyện hoặc bị bắt buộc tham dự vào vòng xoáy chính trị cùng lợi ích.

Chỉ còn 6 tháng nữa, thời điểm dự kiến khai mạc đại hội 12 của đảng cầm quyền sẽ ập đến. Song trùng với lời bình luận của một nhà phân tích dân gian về “cuộc tháo chạy thoát thân bắt đầu,” không ai và cả các chính trị gia lão luyện có thể biết được kịch bản tranh đấu nhân sự nào sẽ khả thi nhất, cũng như số phận của những người làm nghề chính trị mạo hiểm sẽ ra sao - trước, trong và cả sau đại hội 12.

Không gì là không thể...

Tượng Ðài Thuyền Nhân và dấu tích tội ác cộng sản

Theo Người Việt-08-02- 2015 1:59:30 PM
Tạp Ghi Huy Phương

Ngày 13 Tháng Sáu, 2015, sau bao nhiều trở ngại và chờ đợi, cộng đồng người Việt ở Na Uy đã tổ chức một buổi lễ khánh thành và trao tặng Tượng Ðài Thuyền Nhân tại Bảo Tàng Viện Hàng Hải, Oslo.

Khác với 18 tượng đài thuyền nhân Việt Nam rải rác trên khắp thế giới được xây dựng trên mặt đất, Tượng Ðài Thuyền Nhân Na Uy có tên là Hoa Biển (Sjoblomst), mang hình dáng một đóa hoa, được kết hợp bởi năm cánh buồm thiết kế bởi điêu khắc gia Thor Sandborg được đặt ngoài bờ biển.


Tượng Ðài Hoa Sen. (Tài liệu của CÐNV Na Uy)

Năm cánh buồm lấy ý tưởng từ những con thuyền mong manh vượt biển của những người Việt tỵ nạn đi tìm tự do. Tượng đài này được làm bằng một loại thép không rỉ sét, đặt trên những trụ được xây từ đáy biển. Ðường kính của Hoa Biển là 6 mét và được thiết kế cách xa bờ khoảng 12 mét. Trên bờ có một tấm bia ghi những dòng chữ tri ân dân tộc Na Uy với tên của tất cả các con tàu đã cứu người Việt Nam.

Câu chuyện Tượng Ðài Thuyền Nhân này nhắc nhở cho chúng ta tội ác của Cộng Sản Việt Nam. Sau ngày Cộng Sản chiếm miền Nam hàng triệu đồng bào của chúng ta đã vượt biển, vượt biên ra đi tìm một cuộc sống tự do ở các nước khác. Theo số liệu của Cao Ủy Liên Hiệp Quốc về người tị nạn, trong khoảng thời gian hai mươi năm (1975-1995) đã có 849,228 người vượt biên bằng đường biển và đường bộ, tuy nhiên thực tế, con số này còn nhiều gấp bội. Người ta ước tính rằng có khoảng từ 500,000 đến 600,000 người đã chết ngoài biển trong cuộc hành trình gian khổ.

Người Việt tỵ nạn đã xây dựng những tượng đài tưởng niệm người chết và tri ân những quốc gia đã dang tay cứu vớt và cưu mang những con người Việt Nam khốn khổ vì tai ương Cộng Sản.

Trên thế giới tự do, hiện nay có rất nhiều Tượng Ðài Thuyền Nhân.

Một chiếc thuyền vượt biển của thuyền nhân, được Cap Anamur cứu vớt Tháng Tư năm 1984, được đem về đặt tại Troisdorf, Ðức làm đài kỷ niệm, khánh thành năm 2007.

Một tấm bia bằng đồng tri ân nước định cư và kỷ niệm thuyền nhân, dựng ở Hamburg, Ðức năm 2009.

Một đài tưởng niệm thuyền nhân Việt Nam được xây dựng tại Brisbane, tiểu bang Queensland, Úc Châu.

Tượng Ðài Thuyền Nhân, tác phẩm bằng đồng của Vi Vi Võ Hùng Kiệt dựng ở Westminster, California, khánh thành năm 2009.

Lịch sử thế giới đã cho chúng ta thấy những cuộc chạy trốn kinh hoàng từ những vùng đất Cộng Sản, từ Liên Xô, Ba Lan, Tiệp Khắc, Ðông Ðức, Bắc Triều Tiên, Cu Ba Cộng Sản, và rõ nét nhất là Việt Cộng sau Hiệp Ðịnh Geneve năm 1954 chia hai đất nước, hay làm kinh hoàng cả thế giới như những cuộc vượt biển của người Việt Nam sau năm 1975.

Những tượng đài thuyền nhân hiện nay được xây lên trên thế giới là những biểu tượng lên án chế độ Cộng Sản Việt Nam. Do đó nhà cầm quyền Việt Nam luôn luôn tìm cách đánh phá, triệt hạ và dùng áp lực ngoại giao để ngăn chận và phá hủy những Tượng Ðài Thuyền Nhân Việt Nam.

Tấm bia trong trại tị nạn cũ ở Pulau Galang, Indonesia, có ghi những dòng chữ tưởng nhớ những người bỏ mình trên đường vượt biển và tri ân những người đã giúp đỡ thuyền nhân, được khánh thành ngày 24 Tháng Ba, 2005, có sự hiện diện của các viên chức Bộ Ngoại Giao Indonesia, đã bị đục bỏ do áp lực của chính phủ Việt Nam Cộng Sản.


Thuyền Trưởng chiếc Hoegh Sword, Kristian Homlund, vớt thuyền nhân năm 1979. (Tài liệu của CÐNV Na Uy)

Tượng đài thuyền nhân trên đảo Bidong cũng đã bị dẹp bỏ, Malaysia đã có quyết định này sau khi nhận được than phiền và phản đối từ chính phủ Việt Nam.
Nhưng lần này tại Na Uy, thì không!

Ngày 20 Tháng Năm, 2015, Lê Thị Tuyết Mai, đại sứ CSVN tại Na Uy đã gửi một văn thư đến các cơ quan chính phủ của Na Uy, nêu lên ba chủ điểm:

1. Phản đối dùng từ “cộng sản” trong hàng chữ tiếng Việt trên tấm bia tượng đài, trong khi hàng chữ tiếng Na Uy và tiếng Anh không có từ “Cộng Sản.”

2. Từ “Cộng Sản” hàm ý vấn đề chính trị trong khi các tượng đài đặt tại Bảo Tàng Viện Hàng Hải, Oslo hoàn toàn phi chính trị.

3. Minh định rằng: Thuyền nhân trốn khỏi Việt Nam trái phép để tìm kiếm cơ hội kinh tế. Chính phủ Cộng Sản Việt Nam chưa bao giờ đối xử tồi tệ với thuyền nhân trốn chạy khỏi Việt Nam.

Câu chuyện khá buồn cười là Cộng Sản phản đối dùng chữ Cộng Sản khắc trên tấm bia, vậy chúng ta phải gọi chúng bằng danh từ gì. Qua thăng trầm của lịch sử, thế giới loài người đã có bao nhiêu danh từ xấu xa để đặt cho chủ nghĩa Cộng Sản, chính quyền Cộng Sản và con người Cộng Sản.

Ðương nhiên danh từ Cộng Sản hàm ý vấn đề chính trị, và chuyện thuyền nhân tỵ nạn phát xuất từ một hành động chính trị, nhưng đây là một tượng đài tri ân đất nước Na Uy của người Việt, được Na Uy chấp thuận đặt trên phần đất của họ.

Riêng chuyện Cộng Sản Việt Nam “chưa bao giờ đối xử tồi tệ với thuyền nhân trốn chạy khỏi Việt Nam,” hay những người tỵ nạn ra đi chỉ vì miếng cơm, thì rõ ràng đây là một lời nói dối trá, ngoa ngoắt mà những tên nhân danh đảng Cộng Sản Việt Nam, cần xem lại và tự vấn lương tâm để khỏi phát ngôn mà không ngượng mồm hay xấu hổ.

Thời VNCH người đói nghèo cũng không nghĩ chuyện bỏ nước ra đi. Chuyện Cộng Sản đối xử như thế nào với những người “trốn chạy” thì người dân đã thấy rõ, bên cạnh những trại tù “cải tạo” khổng lồ, còn những trại tù vượt biên được dựng lên tại các tỉnh vùng biển, mà người dân phải trả giá đắt bằng sinh mạng, tù đày hay bằng tiền đút lót.

Nhiều cựu thuyền trưởng Na Uy đã cứu vớt người tỵ nạn đã có mặt trong buổi lễ để nhận lời chúc tụng và tri ân của thuyền nhân Việt Nam. Ðô trưởng Oslo, Na Uy, Fabian Stang bước lên sân khấu, bất chấp thư khiếu nại của Tòa Ðại Sứ Việt Cộng, và tuyên bố chính thức thay mặt cho người dân Oslo và toàn thể người Na Uy để nhận Tượng Ðài Hoa Biển, và trân trọng nhận những lời tri ân của người Việt Nam tỵ nạn sống tại Na Uy.

Chậm còn hơn không, chúng ta hy vọng còn nhiều Tượng Ðài Thuyền Nhân nữa lần lượt được xây dựng trên thế giới, đó chính là những tượng đài “Ghi Nhớ Tội Ác Cộng Sản,” hay “Tưởng Niệm Nạn Nhân Cộng Sản” như một tượng đài đã được khánh thành tại Washington DC vào ngày 12 Tháng Sáu, năm 2007.

Xin đọc lại lời phát biểu của Tổng Thống George W. Bush trong buổi khánh thành tượng đài này:

“Họ gồm có các nạn nhân Ukraina bị chết đói trong nạn đói vĩ đại dưới thời Stalin; hoặc những người Nga bị giết trong các cuộc thanh trừng của Stalin; những người Litva, Latvia và Estonia bị quăng lên xe chở trâu bò và bị đầy khổ sai trong các trại tử thần vùng giá rét của chủ nghĩa Cộng Sản Xô Viết. Họ bao gồm những người Trung Hoa bị giết chết trong Ðại Nhảy Vọt và Cách Mạng Văn Hóa; những người Campuchia bị tàn sát trong những cánh đồng chết của Pol Pot; những người Ðông Ðức bị bắn chết trong lúc cố trèo qua bức tường Berlin để tìm tự do; những người Ba Lan bị tàn sát tại rừng Katyn; và những người Ethiopia bị tàn sát trong cuộc ‘Khủng Bố Ðỏ’; những người da đỏ Miskito bị giết chết bởi chế độ độc tài Sandinista ở Nicaragua; và những người Cuba, Việt Nam bị chết chìm trong lúc vượt thoát bạo quyền.”

Ðó là lý do Cộng Sản Việt Nam sợ những Tượng Ðài Thuyền Nhân hiện có mặt trên khắp thế giới hiện nay.

Mỹ: Trung Quốc đưa chiến đấu cơ, tên lửa tới Biển Đông

Quan chức quân sự và chuyên gia an ninh Mỹ lên tiếng cảnh báo khả năng TQ sớm đưa máy bay chiến đấu, tên lửa tới Biển Đông.

Trên tạp chí National Interest, học giả Bonnie Glaser thuộc Trung tâm Nghiên cứu chiến lược và quốc tế (CSIS) khẳng định chắc chắn Trung Quốc sẽ triển khai hệ thống radar và thiết bị nghe lén điện tử trên các đảo nhân tạo xây trái phép để theo dõi mọi hoạt động ở Biển Đông 24/7.

Đường băng dài 3.000m ở Đá Chữ Thập (thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam) đủ sức tiếp nhận mọi máy bay. Các bức ảnh chụp từ vệ tinh cho thấy Trung Quốc đang xây nhiều cơ sở để chứa máy bay chiến đấu tại đây.

Đô đốc Harry Harris, tư lệnh Bộ chỉ huy Thái Bình Dương của Mỹ, cũng đánh giá đường băng 3.000m đủ lớn để tiếp nhận máy bay ném bom B-52 hay máy bay Boeing 747.

Theo chuyên gia Glaser, với các đảo nhân tạo, Trung Quốc có thể triển khai máy bay do thám, máy bay cảnh báo sớm, máy bay không người lái, máy bay vận tải, máy bay tiếp nhiên liệu và máy bay chiến đấu.

Các bức ảnh vệ tinh cho thấy Trung Quốc cũng đang chuẩn bị xây một đường băng lớn khác tại Đá Subi thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam.

Các đường băng giúp quân đội Trung Quốc triển khai máy bay chiến đấu khắp Biển Đông. Như vậy, Trung Quốc sẽ có khả năng theo dõi các chiến dịch quân sự của Mỹ trong khu vực.

Theo đô đốc Harris, tình báo Mỹ chưa phát hiện Trung Quốc đưa tên lửa hành trình chống tàu và các hệ thống hỗ trợ tới đảo nhân tạo bất hợp pháp.

Tuy nhiên ông cảnh báo Trung Quốc sẽ sớm đưa các vũ khí này, cộng với tên lửa đất đối không, tới Biển Đông. Ngoài ra, cầu cảng ở Đá Chữ Thập sẽ giúp các tàu ngầm Trung Quốc dễ dàng hoạt động.

My: Trung Quoc dua chien dau co, ten lua toi Bien Dong
Trung Quốc sẽ đưa vũ khí tới các đảo nhân tạo xây trái phép trên Biển Đông

Chuyên gia Glaser nhận định nếu xung đột xảy ra trên Biển Đông, các đảo nhân tạo Trung Quốc xây trái phép sẽ rất dễ bị lực lượng Mỹ phá hủy. Nhưng trong thời bình, chúng sẽ tạo điều kiện cho quân đội Trung Quốc kiềm chế lực lượng Mỹ. Các đảo này cũng có thể phục vụ kế hoạch giành lại Đài Loan của Trung Quốc.

Bên cạnh đó, tham vọng của Trung Quốc là nguy cơ rất lớn đối với khu vực. Bà nhấn mạnh ASEAN cần phải cố gắng đẩy nhanh nỗ lực đàm phán Bộ Quy tắc ứng xử trên Biển Đông (COC).

Đồng thời, Mỹ và các cường quốc phải liên tục tuần tra quanh các đảo nhân tạo bất hợp pháp do Trung Quốc xây để đảm bảo tự do hàng hải.

Xây đường băng trái phép đủ để đưa máy bay ném bom ra hoạt động

Trong khi đó, ngày 31/7, đài truyền hình NHK Nhật Bản đưa tin cơ quan nghiên cứu Mỹ phân tích cho rằng, đường băng máy bay do Trung Quốc lấn biển thi công (bất hợp pháp) ở Biển Đông là đường băng máy bay có quy mô lớn nhất ở khu vực xung quanh, có thể sử dụng cho máy bay ném bom chiến lược.

Kết quả phân tích, đường băng máy bay này dài khoảng 3.000m, gấp 2 - 6 lần so với độ dài đường băng do các nước như Malaysia và Philippines xây dựng ở các đảo lân cận, có quy mô lớn nhất ở toàn bộ khu vực, có thể sử dụng cho máy bay ném bom chiến lược.

Trả lời phỏng vấn đài NHK, nhà nghiên cứu Mira Rapp Hooper của CSIS cho biết: "Xây dựng đường băng dài như vậy chỉ có thể là do Trung Quốc muốn bảo đảm cất hạ cánh tất cả các máy bay quân dụng của họ".

Trước đó, tại Học viện Hudson ở Washington, Thượng nghị sĩ John McCain, Chủ tịch Ủy ban Quân lực Thượng viện Mỹ lo ngại khả năng TQ sẽ quân sự hóa các đảo nhân tạo xây dựng phi pháp và tuyên bố một vùng nhận diện phòng không (ADIZ) ở Biển Đông để khẳng định yêu sách chủ quyền.

“Họ xây đường băng và sẽ đưa vũ khí đến đó, điều tiếp theo bạn chứng kiến người TQ làm là khi máy bay Mỹ dù là máy bay thương mại hoạt động ở đây, họ sẽ nói 'phải nhận diện' - một ADIZ đồng nghĩa với khẳng định chủ quyền lãnh thổ", ông McCain nói.

Đầu tháng 7, Tư lệnh Bộ chỉ huy Thái Bình Dương của Mỹ (PACOM), Đô đốc Harry Harris mới đây cho biết, hiện các vỉa đá ngầm mà TQ chiếm giữ và xây dựng trái phép ở Biển Đông nhìn giống hệt các căn cứ cho máy bay chiến đấu, máy bay ném bom, tàu và hoạt động do thám.

Đô đốc Mỹ cảnh báo TQ cần lập tức dừng ngay việc "hung hăng áp chế xây dựng đảo" ở Biển Đông" - hành động mà ông lập luận rõ ràng sử dụng cho mục đích quân sự của TQ nhằm chống lại các nước láng giềng.
Chủ Nhật, 02/08/2015 - 22:00
Theo Sơn Ca (tổng hợp)/Đất Việt

Tại sao người Nhật in poster cờ đỏ sao vàng để ngăn chặn nạn ăn cắp?


Báo chí thời gian qua rộ lên tin tức khiến nhiều người Việt buồn rầu và tức giận. Đó là bản tin hai người du khách từ VN bị cảnh sát Thuỵ Sĩ bắt vì tội ăn cắp trong một tiệm bán hàng đắt tiền. Chưa dừng lại ở đó, người Nhật lại cho in poster chống ăn cắp nhưng với hình cờ đỏ sao vàng vẽ theo dạng những giọt máu tươi, kèm theo dòng chữ “lao động là vinh quang”.

Văn hóa, người việt, Bài chọn lọc, ăn cắp,

Ngoài vụ ăn cắp, báo chí còn làm ồn ào vụ một số hành khách nữ bị chận lại ở phi trường Singapore, không cho nhập cảnh, vì họ bị nghi ngờ là sang đó làm gái bán thân.

Cả hai sự việc đều được người dân cho là liên quan đến quốc thể. Vụ in quốc kì Việt Nam hiện nay giống như một lời cảnh báo bàn dân thiên hạ là người mang quốc tịch Việt Nam hay ăn cắp. Lá cờ đó với cách in như thế cũng ngầm để hiểu rằng đó là biểu tượng của một nhóm người ăn cắp. Cũng như cái hộ chiếu của nước Việt Nam là tín hiệu của “có vấn đề”, cụ thể là nạn ăn cắp và làm gái bán thân.

Điều làm tôi suy nghĩ là họ thiết kế cái poster theo thể loại tuyên truyền ở Việt Nam, món đặc trưng ở trong nước. Nhiều người cho rằng người Nhật đang sử dụng chiêu “gậy ông đập lưng ông” để tuyên truyền điều ngược lại. Tuy nhiên tại sao lá cờ đỏ rỉ máu? Tại sao có dòng chữ “lao động là vinh quang”? Có lẽ họ muốn người ăn cắp hay có ý định ăn cắp phải nhận thức rằng muốn có món gì thì phải bỏ tiền mua, phải lao động và đừng có lười.

Tìm cách bao biện

Đa số đều cảm thấy bức xúc và tức giận, nhưng một số không nhỏ có những phản ứng theo kiểu bao biện, nếu không muốn nói là nực cười. Người thì cho rằng ở Mĩ, Pháp, Nhật cũng có người ăn cắp, chứ có riêng gì người Việt Nam; người thì cho rằng nói ra sự thật như thế là bôi nhọ Việt Nam; có người còn đi xa hơn đổ thừa cho một đảng phái nào đó ở nước ngoài!

Đành rằng trong thế giới mạng thì có người này kẻ khác, nhưng những phản ứng trên làm cho chúng ta phải suy nghĩ là chúng ta đang sống bên cạnh sự biến thái văn hoá đến mức không tự nhận biết xấu hổ nữa rồi.

Trước hết là lí giải kiểu “Ở Nhật cũng có người ăn cắp” theo tôi là buồn cười nhất. Người ta đang nói chuyện người Việt ăn cắp, tự dưng chuyển sang chuyện người Nhật! Đó là một kiểu nguỵ biện nhằm đánh lạc hướng, lấy cái xấu biện minh cho cái xấu, “họ ăn cắp thì tôi cũng được ăn cắp”.

Thật ra, câu người Nhật cũng ăn cắp là rất đáng nghi. Giáo sư Gregory Pflugfelder, một chuyên gia văn hoá Nhật Bản, nhận xét rằng “ăn cắp đơn giản là không xảy ra ở Nhật Bản. Tôi thậm chí còn không chắc rằng trong ngôn ngữ Nhật Bản có từ nào để mô tả chính xác hành động này”.

Nên nhớ rằng thói ăn cắp và qui mô ăn cắp của người Việt ở Nhật đã trở thành một vấn nạn. Tôi nói vấn nạn là không quá đáng, vì gần đây có thông tin từ cảnh sát Nhật cho thấy trong 6 tháng đầu năm 2013 đã có 401 vụ liên quan tới người Việt, và con số này chiếm 40% tổng số vụ ăn cắp có dính dáng đến người nước ngoài. Con số 40% đó không thể xem là ngẫu nhiên, là cá biệt được.

40% là một con số mang tính quần thể, liên quan đến một cộng đồng. Thật vậy, trong con mắt của nhiều người Nhật, có lẽ họ nghĩ người Việt là một cộng đồng ăn cắp, cũng giống như một cộng đồng ở bên Âu châu nổi tiếng ăn cắp ở những ga xe điện.

Ăn cắp là một thói cực kì xấu đối với bất cứ nền văn hoá nào. Một cộng đồng mà nổi tiếng ăn cắp thì chỉ có thể nói là nhục nhã.

Thói ăn cắp của người Việt dường như đã hình thành qua lịch sử lâu dài; nó đã được chính sử gia người Việt ghi lại. Trong “Việt Nam sử lược” (1919) của Trần Trọng Kim, phần viết về người Việt, tác giả viết:

“Tâm địa thì nông nổi, hay làm liều, không kiên nhẫn, hay khoe khoang và ưa trương hoàng bề ngoài, hiếu danh vọng, thích chơi bời, mê cờ bạc. Hay tin ma quỉ, sùng sự lễ bái, nhưng không thực tâm tin nơi Thần Phật nào cả, kiêu ngạo và hay nói khoác …”

Nói “không mới lạ” vì chuyện người Việt có thói quen ăn cắp vặt từ lâu đã “nổi tiếng” ở nước ngoài. Một độc giả báo Tuổi Trẻ (13/4/2014) viết qua lời kể của thầy ông rằng 50 năm trước ở Pháp, ngay trên một bãi biển có hàng chữ “Coi chừng người ăn cắp vặt Việt Nam” (Attention aux voleurs vietnamiens).

Do đó, không ngạc nhiên khi người Việt bị kì thị ở nước ngoài, và sự kì thị rõ ràng nhất thường là ở phi trường. Tác giả bài viết cũng đã có một kinh nghiệm chẳng hay ho gì về sự kì thị của hải quan Pháp đối với người Việt. Năm đó, ông bay sang Pháp từ Sài Gòn trong một chuyến bay của Vietnam Airlines. Chuyến bay diễn ra bình thường. Chỉ khi đến phi trường mới có vấn đề.

Tác giả rất ngạc nhiên khi mới ra khỏi máy bay đã có 3-4 người cảnh sát đứng chờ ngay tại cửa đường ống! Họ đứng đó và đòi khách phải xuất trình hộ chiếu. Ông chú ý thấy rõ ràng là tất cả những người mang hộ chiếu VN đều bị hỏi vớ vẩn vài ba câu và có khi hoạnh hoẹ (như trường hợp một chị có con nhỏ, giống như là du học sinh, đứng trước tôi). Đến phiên mình, vì mang hộ chiếu Úc, họ không thèm nhìn mà chỉ khoát tay cho tôi đi.

Đến khi vào khu vực làm di trú lại thấy thêm một sự kì thị như thế. Lần này thì tôi thấy cả người Việt và người da đen (chắc là từ Phi châu) đứng chờ khá lâu và họ nói gì đó tôi nghe không rõ. Đến phiên tôi, không có vấn đề gì cả, không đầy 1 phút tôi đã ra khỏi khi di trú. Cùng là người Việt Nam, cùng đi một chuyến bay từ Việt Nam, vậy mà nhân viên Pháp rõ ràng phân biệt người dựa vào hộ chiếu.

Cứ nhìn vào thứ hạng về hộ chiếu được chấp nhận trên thế giới (hạng 81 trên thế giới, sau cả Lào Và Campuchea) thì biết chúng ta đang ở đâu và được đánh giá như thế nào trên thế giới.
Thứ Bảy, ngày 01 tháng 8 năm 2015 | 1.8.15
Bruce Phan, theo Tuấn’s Blog

(Tinh Hoa)

‘Khiển trách’ tay sai Tàu trong bộ quốc phòng


Bạn đọc Danlambao - Bộ quốc phòng CSVN đã ’khiển trách’ ban giám đốc trung tâm phát thanh - truyền hình quân đội vì hành vi sử dụng nhạc Tàu trong buổi giao lưu văn nghệ kỷ niệm ngày thương binh, liệt sỹ tối 27/7/2015.

Những người tham gia thực hiện chương trình ‘Khát vọng đoàn tụ’ được nói cũng sẽ bị ‘xử lý nghiêm túc’. Tuy nhiên, mức độ ‘kỷ luật’ không được nói rõ chi tiết.

Nhạc nước ngoài?

Động thái trên xảy ra sau khi bộ quốc phòng CSVN bị chỉ trích dữ dội vì đã tấu bản nhạc 'Ca ngợi tổ quốc’ - ‘quốc ca thứ hai’ của Trung Cộng trong buổi văn nghệ được truyền hình trực tiếp.

Đây bị coi là hành động xúc phạm đối với hàng chục ngàn binh lính và dân thường Việt Nam đã hy sinh trong cuộc chiến tranh biến giới phía Bắc chống quân Trung Cộng xâm lược.

Dù vậy, thông báo của Thông tấn Quân nói rằng đây chỉ là một ‘sai sót’ và cho biết:

“Trong quá trình thực hiện chương trình truyền hình trực tiếp đã không kiểm soát được nội dung để xảy ra sai sót là sử dụng một đoạn nhạc nước ngoài vào trong chương trình”

Bản tin trên báo Quân đội Nhân Dân không dám nêu rõ 'đoạn nhạc nước ngoài’ là bài gì và nhạc của nước nào. 

Tuy nhiên, ai cũng biết rõ đây là bài nhạc tuyên truyền cách mạng rất nổi tiếng, được Trung Cộng sử dụng sau khi nắm quyền vào năm 1950.

Chương trình 'Khát vọng đoàn tụ' có sự tham dự của hàng loạt quan chức chóp bu cộng sản và các tướng lĩnh quân đội.

Ca ngợi tổ quốc Tàu?

Phần nhạc được tấu lên là đoạn đầu bài hài hát ‘Ca ngợi tổ quốc’, có nội dung như sau:

“Lá cờ đỏ 5 sao đang đung đưa trong gió, tươi sáng những âm thanh của bài ca chiến thắng.

Hát cho quê hương thân yêu của chúng ta, từ nay bước tới thịnh vượng và sức mạnh”

Chương trình này thu hút sự chú ý vì có sự xuất hiện lần đầu của đại tướng, bộ trưởng quốc phòng Phùng Quang Thanh sau hơn 1 tháng vắng mặt. Hàng loạt quan chức chóp bu cộng sản cũng có mặt để tham dự.

Đây là buổi giao lưu văn nghệ diễn ra tại hội trường bộ quốc phòng, do đài truyền hình Việt Nam VTV phối hợp cùng trung tâm phát thanh - truyền hình quân đội thực hiện.

Trung tâm phát thanh - truyền hình quân đội là cơ quan tuyên truyền của tổng cục chính trị, thuộc bộ quốc phòng CSVN. Giám đốc cơ quan này hiện nay là thiếu tướng Nguyễn Hoàng Nam.

Việc tấu nhạc Tàu trong một chương trình quy mô như 'Khát vọng đoàn tụ' là hết sức nghiêm trọng. 

Hành động này không chỉ xúc phạm đến những người lính bị Trung Cộng sát hại, mà còn là thủ đoạn gián tiếp bán nước cho Tàu.

Dù vậy, việc kỷ luật bằng hình thức 'khiển trách' như Thông tấn Quân đội loan báo chỉ là một biện pháp đối phó với dư luận. Những tên tay sai, gián điệp Tàu cài cắm trong bộ quốc phòng chắc chắn cũng sẽ chẳng bị hề hấn gì.

Nguyễn Phú Trọng đi Mĩ: Đồng sàng dị mộng, mượn gió bẻ măng

Nguyễn Phú Trọng đi Mĩ: Đồng sàng dị mộng, mượn gió bẻ măng. Con đường của chúng ta, những người dân chủ vững bước tiến lên

Âu Dương Thệ (Danlambao) - Nay nhân dân từ Bắc chí Nam đã thấy rất rõ bộ mặt thực giả nhân giả nghĩa, suy thoái đạo đức cùng cực, bất tài vô đức nhưng vẫn muốn kéo dài độc quyền của cả hai phe bảo thủ giáo điều cũng như các nhóm lợi ích. Mất uy tín ở trong nước, sự tan dã của Liên xô và thế giới CS đang làm băng hoại uy thế của chế độ toàn trị. Trong thời đại toàn cầu hóa và kỉ nguyên thông tin điện tử làm cho các nước, các khu vực gần nhau hơn, tùy thuộc nhau hơn, các thông tin được truyền tải chỉ trong vài giây tới hàng triệu triệu người, nó có khả năng làm tê liệt toàn bộ hệ thống tuyền truyền lừa bịp của các chế độ độc tài. Hiện nay tất cả những sức mạnh này, cả trong nước lẫn quốc tế, đang hội tụ với nhau trở thành những sức mạnh cả tư tưởng lẫn vật chất áp lực ngày càng mạnh lên chế độ toàn trị...


*

“Phát biểu kết luận Hội nghị, đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng phân tích, làm sáng tỏ thêm một số diễn biến cơ bản của tình hình trong nước và thế giới; khẳng định đây là một Hội nghị rất quan trọng và cần thiết, được tổ chức do đòi hỏi của tình hình, nhiệm vụ công tác bảo vệ an ninh, trật tự trong tình hình mới. Vấn đề mấu chốt là phải quán triệt sâu sắc và chỉ đạo tổ chức thực hiện quyết liệt những nhiệm vụ, giải pháp mà Chỉ thị của Bộ Chính trị đã đề ra. Đồng chí Tổng Bí thư yêu cầu các đồng chí Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, các đồng chí lãnh đạo chủ chốt các bộ, ban, ngành, địa phương, trước hết là người đứng đầu trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện có hiệu quả Chỉ thị, tạo chuyển biến thực sự về nhận thức và hành động trong công tác bảo đảm an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền quốc gia, bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ, bảo vệ nhân dân, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để xây dựng và phát triển đất nước; bảo vệ an toàn tuyệt đối các sự kiện chính trị quan trọng của đất nước, chuẩn bị và tiến hành thành công đại hội đảng bộ các cấp và Đại hội lần thứ XII của Đảng./.”

Trên đây là chỉ thị của Nguyễn Phú Trọng tại "Hội nghị quán triệt, triển khai thực hiện Chỉ thị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác bảo đảm an ninh, trật tự trong tình hình mới" được tổ chức rất vội vã sau chuyến đi Mĩ. Ngoài ông Trọng chỉ có Trương Tấn Sang và Lê Hồng Anh, nhưng vắng Nguyễn Tấn Dũng và Nguyễn Sinh Hùng. [1]

Tương quan mật thiết giữa ngoại giao với nội trị

Khi hoạch định chiến lược đối ngoại có những khác biệt căn bản giữa một chính quyền dân chủ văn minh với chính quyền một chế độ độc đảng toàn trị. Vì mục tiêu chính sách đối ngoại của hai chế độ này hoàn toàn khác với nhau. Chế độ dân chủ đa nguyên đặt ưu tiên bảo vệ quyền lợi quốc gia và các lợi ích căn bản của nhân dân. Trong khi đó chế độ toàn trị đặt thượng tôn cho quyền lợi của đảng, làm sao để đảng có thể vượt qua các khó khăn để độc quyền cai trị tiếp. Nhiều khi nếu sự kình chống nhau giữa các phe phái trong đảng quá lớn thì các phe nhóm sẵn sàng chuyển hướng ngoại giao để bảo vệ quyền lợi riêng của từng phe.

Lịch sử hai ĐCSVN và ĐCS Trung quốc đã chứng minh điều này. Sau khi Mao Trạch Đông mất (1976) hai phe Đặng Tiểu Bình và “Tứ nhân bang” (bè lũ bốn tên) do vợ Mao, Giang Thanh và vây cánh giành giựt quyền lực quyết liệt, gây phân hóa trầm trọng trong ĐCS Trung quốc. Để củng cố quyền lực Đặng Tiểu Bình đã tìm cách ngả theo Mĩ và từng tuyên bố Trung quốc sẽ làm NATO ở phương Đông chống Liên xô, rồi đánh VN đang là đồng minh của Liên xô ở phương Đông. Khi ấy TT Mĩ Carter đã trải thảm đỏ tiếp họ Đặng mặc dầu ông chỉ là Phó Thủ tướng.

Còn tại VN vào thời kì cuối thập niên 50 của Thế kỉ trước phe Lê Duẩn quyết dùng võ lực để chiếm miền Nam thay vì “Chung sống hòa bình” với Hoa Kì như Chrutschew, thủ lãnh Liên xô và lãnh tụ thế giới CS. Nên Lê Duẩn đã quay đầu về Bắc kinh, ca ngợi Mao là Lenin của phương Đông, đồng thời cô lập Hồ Chí Minh, Võ Nguyên Giáp và dựng lên vụ án chống “Nhóm xét lại trong đảng”.

Những người làm công tác trong khoa học chính trị, đặc biệt những nhà hoạt động chính trị, cần phải nắm vững sự khác biệt quan trọng này và những mưu đồ quyền lực của các phe phái trong ĐCSVN hiện nay để nhận rõ đâu là hình hài thực sự và đâu chỉ là bóng dài trước ánh đèn của sân khấu tuyên truyền.

Một kế hoạch đối ngoại có khi chỉ để phục vụ mục tiêu đoản kì trước mắt, nhưng cũng có thể là mục tiêu trung hạn và đài hạn. Tuy nhiên nhiều khi lúc đầu một kế hoạch đối ngoại chỉ tính đoản kì, nhưng do những biến động lớn cả trong lẫn ngoài nước làm thay đổi cơ bản tương quan lực lượng, khiến cho mục tiêu đối ngoại đoản kì có thể trở thành dài hạn. Lịch sử chính trị cận đại cũng đã từng diễn ra nhiều lần các khả năng này. Sau Thế chiến thứ hai Đức và Nhật đã bắt buộc phải thay đổi chính sách đối ngoại, từ là những tử thù trở thành thân Hoa Kì. Tiếp đó trước sự đe dọa trực tiếp của Liên xô, các lực lượng dân chủ ở Đức và Nhật đã nắm được đa số chuyển hai nước thành chế độ dân chủ đa nguyên như ở Mĩ và nhiều nước Tây Âu. Nhờ thế các xã hội Hoa Kì, Đức và Nhật đã có những tương đồng giá trị lớn về hệ thống tư tưởng và cấu trúc xã hội, từ đó các quốc gia này trở thành bạn và đồng minh chiến lược từ 70 năm qua. 30 năm trước đây khi Gorbatschow thay đổi sách lược đối ngoại với Mĩ và Tây Âu, đặc biệt với nhiều nước chư hầu ở Đông Âu qua việc từ bỏ chủ thuyết của Breschnew can thiệp bằng võ lực vào các nước này. Sau đó khi Liên xô rơi vào khủng hoảng nội bộ trầm trọng, nên nhân dân nhiều nước Đông Âu biết lợi dụng thời cơ, đứng lên đấu tranh tách nhanh ra khỏi khu vực ảnh hưởng của Liên xô và trở thành những nước Dân chủ đa nguyên.

Nhưng cũng có những kế hoạch ngoại giao bề ngoài tưởng như có thay đổi lớn và toàn diện, nhưng thực sự chỉ là mưu kế dương đông đánh tây, hòa hoãn tạm thời đối với bên ngoài cũng như trong nước. Như hai trùm độc tài Hitler và Stalin đã kí Thỏa hiệp mật Bất can thiệp (1939), nhưng chỉ ít năm sau Hitler đã cho mấy trăm ngàn quân tính xâm chiếm Liên xô.

Lịch sử cận đại VN cũng đã diễn ra một số lần tương tự. Gần cuối Thế chiến thứ hai Nhật chiếm Đông dương của thực dân Pháp, nhưng sau đó thua trận, VN rơi vào khoảng trống chính trị. Nhóm CS của Hồ Chí Minh đã biết lợi dụng tình thế tổ chức biểu tình mở ra „Cách mạng tháng 8 "để" cướp chính quyền" cuối tháng 8 đầu tháng 9. 1945. Nhưng chính quyền non trẻ của Hồ Chí Minh phải đối diện với 20 vạn quân của Tưởng Giới Thạch tiến vào Bắc VN để giải giới quân Nhật và các chính đảng không CS đang hoạt động trở lại. Trước tình thế lưỡng nan này Hồ Chí Minh đã đưa ra sách lược ngoại giao "Hòa với Tưởng" để giệt đối thủ chính trị trong nước bằng các thủ đoạn mua chuộc các tướng Tầu tham nhũng, kể cả biếu nhiều kí vàng sau "tuần lễ quyên vàng" để các tướng Tầu như Lư Hán, Tiêu Văn, Trương Phát Khuê… nhắm mắt làm ngơ cho Hồ Chí Minh thẳng tay đàn áp các chính đảng và chính trị gia không CS.

Tiếp đó trước khi sang Pháp đàm phán để tìm cách hòa hoãn với Pháp ở Đông dương Hồ Chí Minh đã căn dặn các đồng chí thân cận nhất phải nắm vững sách lược ngoại giao "Dĩ bất biến, ứng vạn biến" [mọi thay đổi phải phục vụ mục tiêu duy nhất là giữ vững chính quyền cho đảng]. Cho nên trong thời gian Hồ Chí Minh đàm phán ở Pháp các đồng chí của ông đã thẳng tay đàn áp các chính đảng và sát hại các chính trị gia không CS. Tàn bạo nhất là vụ bắt giam và thủ tiêu nhiều lãnh tụ và cán bộ nhiều chính đảng tại phố Ôn Như Hầu ở Hà Nội (ngay là phố Nguyễn Gia Thiều) 7.1946. Từ đó đến nay suốt trên 70 năm những người cầm đầu CSVN qua nhiều thế hệ vẫn ca tụng các thủ đoạn và quỉ kế hòa với ngoại thù để giệt nội thù "Dĩ bất biến, ứng vạn biến" là sách lược ngoại giao khôn ngoan, là bửu bối hay đũa thần và được dùng lại mỗi khi gặp tình thế ngặt nghèo! [2]

Vì vậy những nhà hoạt động chính trị dân chủ cần nắm vững thông tin, phân tích sâu sắc và nhận thức rõ ràng để biết ý định thực sự, các ý đồ thầm kín trước những thay đổi sách lược đối ngoại của các phe nhóm trong Bộ chính trị và Trung ương đảng chế độ toàn trị….Có nắm vững được như vậy thì mới biết rõ thời cơ, triển khai những thuận lợi và ngăn ngừa những khó khăn…

Chủ thuyết đối ngoại của Tổng thống Obama ở châu Á-Thái bình dương

Sách lược vung tay quá trán của TT Bush (Bush con), chỉ dùng quân sự mở các cuộc chiến tranh ở Irak và Afghanistan đã khiến Mĩ bị sa lầy ở Trung đông, tổn phí hàng vạn sinh mạng và hàng ngàn tỉ Mĩ kim. Khiến cho vị thế siêu cường cả về quân sự lẫn kinh tế của Hoa Kì chỉ trong vòng một thập niên bị lung lay.

Trong khi ấy lợi dụng sự sa lầy ở Trung đông, suy thoái kinh tế trầm trọng và mất uy tín trên thế giới của Hoa Kì, Bắc kinh đã vươn lên rất nhanh trở thành cường quốc kinh tế thứ hai chỉ sau Mĩ. Hàng hóa Trung quốc tràn ngập thị trường Mĩ và thế giới, đồng thời Mĩ còn trở thành con nợ lớn của Trung quốc! Nhóm cầm đầu Bắc kinh không thỏa mãn mà còn nuôi mộng bá quyền mở rộng ảnh hưởng trên toàn thế giới, đặc biệt ở Đông á, Đông nam á và Á châu, bằng các sức mạnh mềm kinh tế, tài chánh, điệp viên và bằng cả quân sự, như tăng cường không quân và hải quân biến các đảo ở biển Đông thành cái ao của Trung quốc. Chính sách này đe dọa không chỉ trước mắt mà còn dài hạn cho vai trò siêu cường của Mĩ và các đồng minh của Mĩ ở châu Á.

Các nhà lập chiến lược đối ngoại và an ninh của chính phủ Mĩ thời Obama đã nhìn thấy rõ các nguy cơ cực kì nguy hiểm đe dọa quyền lợi sinh tử trước mắt cho Mĩ. Cho nên sau khi rút quân khỏi các chiến trường Trung đông. Từ đầu thập niên thứ hai của Thế kỉ này TT Obama và cựu ngoại trưởng bà Clinton đã đưa ra học thuyết 'Quay trục sang châu Á-Thái bình dương'.

Do vị trí địa lí chiến lược đặc biệt nên VN với bờ biển dài 3000 cây số, hai quần đảo Hoàng sa và Trường gia nằm trực diện và không xa trên biển Đông dọc theo bờ biển của VN đang bị Bắc kinh chiếm đóng biến thành các căn cứ quân sự đe dọa trực tiếp đường hàng hải quốc tế rất quan trọng. Nên trong sách lược mới 'Quay trục sang châu Á-Thái bình dương' của Hoa Kì VN trở thành một trọng điểm chiến lược.

Trung quốc với trên 1.300 triệu dân, theo chế độ CS và lại nuôi tham vọng bành trướng với khẩu hiệu 'Thực hiện giấc mơ vĩ đại của Trung quốc' do chính Tập Cận Bình đề ra. Điều này giống như Liên xô sau Thế chiến thứ hai và còn nguy hiểm hơn Liên xô cũ vì Trung quốc có dân số đông nhất thế giới. Vì vậy Obama muốn thực hiện sách lược bao vây và ngăn đe Trung quốc như chủ thuyết Containment policy của TT Mĩ Truman, bao vây và ngăn đe Liên xô sau Thế chiến thứ 2. Điểm mấu chốt trong sách lược 'Quay trục sang châu Á-Thái bình dương' là Hoa Kì không làm thay những gì các nước châu Á có thể tự làm được. Hoa Kì chỉ giữ vai trò chiến lược là phối hợp, ủng hộ chính trị, kinh tế, quân sự và dùng cái dù nguyên tử để bảo vệ các đồng minh và các nước thân hữu ngăn chặn những chủ trương phiêu lưu của Bắc kinh. [3]

Vì sao lúc này Nguyễn Phú Trọng phải đề ra sách lược “hòa với Mĩ” để cứu phe bảo thủ giáo điều?

Muốn hiểu lí do này cần nắm vững các biến chuyển chính của chế độ toàn trị từ sau 1975. Từ khi nạn đói khủng khiếp kéo dài, lại phải đương đầu cuộc chiến ở phía Bắc và sa lầy ở Kambodscha, tiếp đến sự tan dã của Liên xô, chế độ toàn trị của CSVN rơi vào hoàn cảnh cực kì hiểm nghèo như sợi chỉ treo ngàn cân. Vì thế để cứu đảng nên từ cuối thập niên 80 họ bề ngoài phải đưa ra chiêu bài “đổi mới”, nhưng vẫn giữ đất đai là tài sản của nhà nước, đồng thời lại vội vàng đưa ra chủ trương Kinh tế thị trường định hướng XHCN, trong đó các Doanh nghiệp nhà nước nắm vai trò chủ đạo. Với mục tiêu là sử dụng khu vực Kinh tế nhà nước làm phương tiện kiểm soát toàn bộ nền kinh tế tài chánh và qua đó chỉ huy và kiểm soát tất cả các lãnh vực đời sống của nhân dân và nhờ thế vẫn giữ được độc quyền cho đảng. Nghĩa là đảng vẫn nắm độc quyền phần chính các sinh hoạt kinh tế-tài chính. Các Doanh nghiệp nhà nước không chỉ được ưu đãi tiền bạc của nhà nước, đất đai, nhà cửa mà còn giành độc quyền sử dụng các công trình ODA với nhiều tỉ Mĩ kim viện trợ và vay với lãi suất rất thấp của các nước ngoài. Các cán bộ có quyền lực, tuy không có khả năng chuyên môn, được cất nhắc vào các ban điều hành và giám đốc các Doanh nghiệp nhà nước và được hưởng lương bổng cao cùng các đặc quyền đặc lợi.[4]

Dưới chế độ độc đảng lại không có cơ chế kiểm soát độc lập, nên không bao lâu các tổng công ti của Doanh nghiệp nhà nước dưới chế độ toàn trị đã trở thành ổ nuôi tham nhũng cho các cán bộ cho chức quyền từ trung ương tới địa phương. Dưới nhiệm kì thứ hai làm Tổng bí thư của Nông Đức Mạnh nhiều Ban Trung ương của đảng đã bị giải tán, trong đó có cả Ban Kinh tế trung ương, giao cho Chính phủ. Đúng vào lúc này Nguyễn Tấn Dũng trở thành Thủ tướng (2006) và thực hiện chủ trương mở rộng các Tổng công ti thành các Tập đoàn kinh tế nhà nước và hô hoán sẽ biến các Tập đoàn kinh tế thành những “quả đấm thép” cho chế độ toàn trị!

Nhưng hiện nay chỉ trong vòng gần một thập niên, thay vì là những quả đấm thép bảo vệ chế độ toàn trị, các Tập đoàn kinh tế nhà nước trở thành quả đấm thép của riêng Nguyễn Tấn Dũng và các bộ trong chính phủ, cũng như các cơ quan nắm kinh tế, tài chánh ở các thành phố và tỉnh trong toàn quốc. Các cán bộ có chức quyền đã lợi dụng độc quyền để lộng quyền tham nhũng, làm giầu bất chính rất nhanh và rất lớn. Điển hình như các vụ Vinashin, Vinalines, PMU 18…. làm thất thoát và phí phạm tài sản của nhà nước hàng trăm ngàn tỉ đồng. Các đại quan đỏ từ Nông Đức Mạnh, Lê Khả Phiêu, Nguyễn Tấn Dũng, Phùng Quang Thanh… đã lợi dụng quyền lực thu vén cho bản thân, gia đình và vây cánh. Vì thế một số người khi về hưu sống trong những biệt thự nội thất trang trí nguy nga như thời vua chúa. [5]

Hiện nay hệ thống của bọn quan tham nhũng từ trung ương tới địa phương đã kết nối với nhau thành những nhóm lợi ích, đang dùng sức mạnh của đồng tiền và quyền lực thành những quả đấm thép đánh phá ngay trong nội bộ đảng, những ai không theo vây cánh hay chống lại họ. Chính Nguyễn Phú Trọng cũng đã phải chẩy nước mắt mấy lần!

Trước và trong khi đi Hoa Kì ông Trọng đã để cho ban Tuyên giáo dưới quyền ủy viên Bộ chính trị Đinh Thế Huynh –ngôi sao chính trị lớn- mở mặt trận tuyên truyền hạch tội các Nhóm lợi ích. Ủy viên Trung ương đảng kiêm Phó Trưởng ban thường trực Ban Tuyên giáo trung ương Vũ Ngọc Hoàng đã viết liên tiếp nhiều bài tố cáo nghiêm khắc tư duy ích kỉ “lợi ích nhóm” của các “nhóm lợi ích” đang lộng hành bòn rút tài sản quốc gia và phá hoại đảng. Các bài này đã được các tờ điện tử CS, Tạp chí CS, Tuổi trẻ và nhiều cơ quan báo chí khác phổ biến rộng rãi. Tuy không trực tiếp nêu tên Nguyễn Tấn Dũng, nhưng lời chỉ trích của ông lại chĩa chính vào người cầm đầu chính phủ…

“Người có tiền sẽ có quyền lực và người có quyền lực sẽ có tiền. Họ cùng nhau hành động để có quyền lực và có tiền ngày càng nhiều hơn. Đồng tiền cộng với quyền lực tạo thành sức mạnh khống chế, lũng đoạn tổ chức và xã hội. Nhận thức sự quan trọng của thông tin, “nhóm lợi ích” còn móc nối, “kết nạp”, kết hợp với một số nhóm truyền thông không lành mạnh để tác động chi phối dư luận theo hướng có lợi cho “nhóm lợi ích” và xuyên tạc vu cáo những người, những doanh nghiệp không cùng nhóm để tranh quyền lực và lợi ích. “Lợi ích nhóm” sẽ kéo theo và song hành với tham vọng quyền lực cùng với tham vọng tiền bạc.”[6]

Đoạn trên đây Vũ Ngọc Hoàng đã ám chỉ dư luận cho là Blog Chân dung quyền lực do cánh Nguyễn Tấn Dũng đứng đằng sau, trước và trong Hội nghị trung ương 10 (1.15) đã đăng hàng loạt bài bôi xấu Nguyễn Phú Trọng và nhiều ủy viên Bộ chính trị, vì thế đã gây tác động làm điêu đứng và tê liệt cho phe Nguyễn Phú Trọng tại cuộc bỏ phiếu tín nhiệm trong Hội nghị trung ương 10. Trong khi Nguyễn Tấn Dũng về đầu thì Nguyễn Phú Trọng lẹt đẹt gần đội sổ! 

Theo Vũ Ngọc Hoàng, cách làm ăn và mưu đồ của các Nhóm lợi ích trong đảng hiện nay chính là “CNTB thân hữu còn có các cách gọi khác nhau, là “CNTB lợi ích”, “CNTB bè phái”, “CNTB bè cánh”, “CNTB lũng đoạn”. Từ đó Vũ Ngọc Hoàng đã kết án là hoạt động của các “nhóm lợi ích” nhất định sẽ dẫn tới làm 'chệch hướng khỏi mục tiêu xã hội chủ nghĩa chân chính'! [7]

Mặc dầu sự hình thành và ngày càng lộng quyền của các nhóm lợi ích ngay trong đảng đã được Nguyễn Phú Trọng nhìn nhận và tố cáo công khai trong nhiều Hội nghị trung ương từ khi lên làm Tổng bí thư đầu 2011. Nhưng ông Trọng đã tránh né không dám nói tới nguyên nhân dẫn tới tình trạng này. Là người cực kì bảo thủ giáo điều, dù không biết thế kỉ này có đưa đất nước tiến vào XHCS hay không, nhưng cả trong Cương lĩnh chính trị 2011 và Hiến pháp 2013 ông vẫn ngang ngạnh giữ nguyên Điều 4 giành độc quyền cho ĐCS, giữ nguyên “đất đai là thuộc công hữu” và duy trì hệ thống Kinh tế nhà nước. Nghĩa là ông Trọng không dám nhìn thẳng vào sự thật: Sự tham nhũng và thoái hóa đạo đức của cán bộ và sự bùng nổ của các 'Nhóm lợi ích' là do độc quyền của đảng!
Không những thế, Nguyễn Phú Trọng còn tăng cường gắn bó với Bắc kinh, từng tuyên bố “tình hình biển Đông không có gì mới”, mặc dù Bắc kinh đã chiếm đóng các đảo của VN và đang biến biển Đông thành cái hồ của Trung quốc. Ông Trọng còn mở rộng hợp tác chiến lược với Trung quốc kể cả quốc phòng và an ninh, cũng như chỉ đàm phán song phương với Trung quốc và chống lại quốc tế hóa tranh chấp biển Đông. Thanh niên, nhân sĩ biểu tình chống Bắc kinh bành trướng bị đàn áp. Trí thức, chuyên viên và đảng viên tiến bộ gởi kiến nghị cảnh báo các chính sách sai lầm trong đối nội và chủ trương phiêu lưu với Trung quốc thì bị Nguyễn Phú Trọng kết tội là 'suy thoái chính trị, tư tưởng, đạo đức'.

Chính vì các lí do nêu trên, nên trong suốt trên 4 năm làm Tổng bí thư, tất cả các kế hoạch chỉnh đảng, thanh lọc hàng ngũ và chống tham nhũng của Nguyễn Phú Trọng đều thất bại. Nguyễn Tấn Dũng –với bí danh “đồng chí X” do Trương Tấn Sang đặt cho- không bị cách chức. Ngược lại, vây cánh của ông ta trong Trung ương đảng và cả trong Quốc hội ngày càng lấn áp phe bảo thủ đứng đầu là Nguyễn Phú Trọng. Thậm chí các quyết định nhân sự quan trọng trong Bộ chính trị của phe Nguyễn Phú Trọng bị phe các nhóm lợi ích đứng đầu là Nguyễn Tấn Dũng đánh thảm bại nhiều lần.[8]

Quyền-tiền đã trở thành sức mạnh áp đảo và thay thế ý thức hệ Marx-Lenin ngay trong Trung ương đảng. Sự thất bại nhiều lần và kéo dài của Nguyễn Phú Trọng đã làm cho ông ta mất uy tín ngay trong đảng và trong nhân dân và còn dẫn tới hoang mang, phân hóa ngay trong nội bộ của phe bảo thủ giáo điều. Sự thất bại mới đây nhất đã diễn ngay trong Hội nghị trung ương 10 (đầu tháng 1.15). Mặc dù đã phải hoãn đi hoãn lại nhiều tháng, nhưng kết quả bỏ phiếu trong Trung ương đảng thì Nguyễn Tấn Dũng vẫn dẫn đầu còn Nguyễn Phú Trọng và vây cánh cứ lẹt đẹt về hậu.

Hiện nay sự tung hoành công khai của phe lợi ích nhóm đã trở thành tình trạng “một quốc gia trong một quốc gia” ở ngay trong đảng. Họ sẵn sàng ăn miếng trả miếng với phe bảo thủ, điển hình như trong khi phe bảo thủ thất bại trong việc hạ Nguyễn Tấn Dũng thì phe của ông ta đánh quật lại làm hoang mang và tê liệt phe Nguyễn Phú Trọng. Sự tàn bạo cùng tận giữa các “đồng chí” với nhau đến nỗi khai thác cả cái chết của ủy viên Trung ương đảng kiêm Trưởng ban Nội chính trung ương Nguyễn Bá Thanh và cánh tay mặt của Nguyễn Phú Trọng trong Ban chỉ đạo trung ương phòng chống tham nhũng giữa lúc Hội nghị trung ương 10 họp đầu 1.15![9]

***

Phe Nguyễn Phú Trọng đã thấy rõ nỗi nguy hiểm là có thế mất tất cả trong Đại hội 12 chỉ còn vài tháng. Vì thế sau Hội nghị trung ương 10 phe Nguyễn Phú Trọng đã phải ra tay triển khai một sách lược mới cả trong đảng lẫn đối ngoại, với mục tiêu là chặn lại ảnh hưởng của phe Nguyễn Tấn Dũng, rửa lại bộ mặt dơ dáy trước nhân dân và quốc tế, cải thiện uy tín đang đi xuống; từ đó tìm cách tái tập hợp lực lượng của phe bảo thủ giáo điều mong giành lại quyền chủ động đang bị mất về phe nhóm lợi ích của Nguyễn Tấn Dũng tại Đại hội 12 vào đầu 2016.

Vì thế tại Hội nghị trung ương 11 (đầu tháng 5.15), để thỏa mãn những yêu sách của ngay trong phe cánh mình, đặc biệt nhiều tướng lãnh trong quân đội, Nguyễn Phú Trọng đã phải chiều họ, đưa Dự án xây dựng sân bay Long thành trên 18 tỉ USD vào chương trình làm việc của Hội nghị này, bất kể tới tình trạng nợ công đang gia tăng tới mức báo động.[10] Nếu không làm thế thì không thể cột quân đội hậu thuẫn cho phe mình.

Đối với nội bộ đảng, tại Hội nghị trung ương 11 phe Nguyễn Phú Trọng đặt ra những tiêu chuẩn rất cao trong việc chọn người vào Bộ chính trị và Ban bí thư của Đại hội 12 nhằm chĩa mũi dùi tấn công vào phe nhóm lợi ích của Nguyễn Tấn Dũng, dù ông Trọng thừa biết là các tiêu chuẩn này ngay cả các thân tín của ông cũng chẳng có người nào hội đủ:

“Ủy viên Bộ Chính trị, Ban Bí thư phải là những đồng chí thật tiêu biểu của Ban Chấp hành Trung ương về bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, trí tuệ, ý chí chiến đấu, năng lực lãnh đạo quản lý, có tầm nhìn và tư duy chiến lược, có khả năng phân tích, dự báo, tổng hợp, đề xuất những vấn đề mới một cách đúng đắn; có trình độ hiểu biết sâu sắc về lý luận chính trị, biết phát hiện và sử dụng người có đức có tài; đã tham gia Ban Chấp hành Trung ương, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, trong độ tuổi theo quy định và đủ sức khỏe để đảm đương nhiệm vụ.

Kiên quyết không để lọt vào Ban Chấp hành Trung ương những người có một trong các khuyết điểm, như: Bản lĩnh chính trị không vững vàng, không kiên định đường lối, quan điểm của Đảng, có biểu hiện cơ hội chính trị, nói và làm trái Cương lĩnh, đường lối, nguyên tắc của Đảng; tham vọng quyền lực, xu nịnh, chạy chọt, vận động cá nhân, tư tưởng cục bộ, phe cánh, lợi ích nhóm, không dám đấu tranh bảo vệ lẽ phải; vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ, mị dân, chuyên quyền, độc đoán, trù dập người thẳng thắn đấu tranh, phê bình; để xảy ra tình trạng mất đoàn kết nội bộ nghiêm trọng, tham nhũng, tiêu cực lớn ở địa phương, đơn vị; không chịu nghiên cứu học hỏi, bảo thủ, trì trệ, làm việc kém hiệu quả, nói không đi đôi với làm; ý thức kỷ luật kém, không chấp hành sự điều động, phân công của tổ chức; kê khai tài sản không trung thực, có biểu hiện giàu nhanh, nhiều nhà, nhiều đất, nhiều tài sản khác mà không giải trình rõ được nguồn gốc; bản thân và vợ, chồng, con có lối sống thiếu gương mẫu, lợi dụng chức quyền để thu lợi bất chính; có vấn đề về lịch sử chính trị hoặc chính trị hiện nay.” [11]

Các tiêu chuẩn vào Bộ chính trị và Trung ương đảng trong Đại hội 12 tới trên đây không có gì mới, chỉ lập lại các Đại hội trước. Nó chỉ là con hổ giấy không thể hù dọa bọn tham quan mọc lên như rươi thuộc phe các nhóm lợi ích ở trong đảng. Có chăng chỉ là để ru ngủ đảng viên nhẹ dạ và tạo ra một dư luận hồ hổi mới giả tạo để đánh lừa nhân dân!

Sau đó Tô Huy Rứa, ủy viên Bộ chính trị kiêm Trưởng ban Tổ chức trung ương –cơ quan phụ trách tuyển chọn nhân sự ở cấp cao- vây cánh của ông Trọng, đã thay đổi hàng loạt nhiều ủy viên Trung ương đảng là Bí thư tỉnh ủy và đứng đầu các ban trung ương. Mục đích là đưa vây cánh vào để chặt bớt ảnh hưởng của phe Nguyễn Tấn Dũng trong Trung ương đảng. Song song với việc chặt vây cánh các đối thủ ở trung ương, Nguyễn Phú Trọng còn để báo chí lề đảng đăng loạt bài của Vũ Ngọc Hoàng, người thứ hai trong Ban Tuyên giáo Trung ương, đánh trực diện bằng cách tố sát ván để làm mất uy tín phe các 'nhóm lợi ích' của ông Dũng, như đã trình bầy trên đây.

Mũi tấn công thứ ba và cũng là trọng tâm để phá phe Nguyễn Tấn Dũng, đồng thời thuyết phục các đảng viên và vỗ về nhân dân nằm trên mặt trận đối ngoại. Trong đó phải vận động để TT Obama mời Nguyễn Phú Trọng thăm Hoa Kì. Chỉ khi nào Nguyễn Phú Trọng thân hành sang Mĩ thì mới mong giải tỏa được dư luận vô cùng bất lợi cả trong đảng lẫm ngoài xã hội từ khi phe bảo thủ giáo điều cúi đầu trước nhóm cầm đầu Bắc kinh tại Thành đô đầu tháng 9.1990.

Tuy việc đi Hoa Kì rất gian nan, nhưng Nguyễn Phú Trọng không thể thoái thác. Vì chính thái độ cúi đầu của ông trong thời gian làm Tổng bí thư đã cổ vũ Bắc kinh càng lấn tới, từ chiếm một số đảo của VN tới công khai khoanh biển Đông thành 9 đoạn rồi hô hoán bảo là thuộc lãnh hải của Trung quốc. Không những thế, sau khi biết Nguyễn Phú Trọng không dám chống việc các tầu hải giám Trung quốc vào ngay trong lãnh hải VN ngăn cản và phá hoại việc VN thăm dó và khai thác dầu khí vài năm trước, nên Bắc kinh đã được đằng chân lân đằng đầu. Giữa năm 2014 họ lại một mặt đưa giàn khoan khủng HD 918 ngay trên lãnh hải của VN, mặt khác mở rộng và xây dựng các pháo đài, phi trường trên các đảo xâm chiếm thành các căn cứ quân sự , “hàng không mẫu hạm không bao giờ chìm” để kiểm soát đường hàng hải quốc tế quan trọng, đồng thời uy hiếp an ninh VN. Các chính sách bành trướng của bá quyền Bắc kinh đã phơi bày những lời tuyên bố“Tình hình biển Đông không có gì mới” của Nguyễn Phú Trọng; hay của Thứ trưởng quốc phòng Nguyễn Chí Vịnh 'Một thực tế hiển nhiên là Trung quốc cam kết không lấy đất, lấy biển của Việt Nam' và còn long trọng hứa ngăn cấm nhân dân VN không được biểu tình chống Bắc kinh xâm lấn: 'Kiên quyết xử lý vấn đề tụ tập đông người ở Việt Nam với tinh thần không để sự việc tái diễn'. Hoặc thái dộ của bộ trưởng Quốc phòng Phùng Quang Thanh lo sợ nhân dân VN ngày càng ác cảm với Bắc kinh cảnh báo xu thế “bài” [12] Trung quốc. Các chủ trương cúi đầu trước Bắc kinh xuyên qua những lời tuyên bố này nay đã bị thực tế chứng minh là hoàn toàn thiển cận, ngờ ngệch và vô trách nhiệm. Nó minh chứng rõ ràng là chủ trương thần phục Bắc kinh của Nguyễn Phú Trọng đã phá sản toàn bộ!

Không chỉ đứng trước nguy cơ bị phe các nhóm lợi ích đang tìm cách hất cẳng trong Đại hội 12 sắp tới, Nguyễn Phú Trọng và phe bảo thủ cũng bị mất uy tín rất lớn với các đảng viên tiến bộ, lo sợ trước phong trào “tự diễn biến”, “tự chuyến hóa” ngày càng mạnh trong hàng ngũ đảng viên. Trong khi ấy các phong trào dân sự đang có nhiều khí thế của nhiều tầng lớp nhân dân, đặc biệt với thanh niên và các chuyên viên, trí thức đứng lên đấu tranh; từ các kiến nghị đòi thay đổi nội trị và ngoại giao, tới những cuộc biểu tình chống bành trướng của Bắc kinh, chống công an đàn áp bạo hành nhân dân, tố cáo các quan đỏ tham nhũng, ủng hộ các cuộc xuống đường và thắp nến đòi lại đất đai của nông dân và tín đồ các tôn giáo. Nhiều đảng viên tiến bộ và quí tự trọng đã trả lại thẻ đảng, rút ra khỏi các tổ chức tay sai của đảng, gởi kiến nghị đòi thay đổi toàn diện cả chính trị và tham gia tích cực các cuộc vận động dân sinh và dân quyền.

Các cuộc vận động dân chủ và nhân quyền bằng phương pháp phi bạo lực của nhân dân VN đã được Hoa Kì, EU và nhiều nước dân chủ nhiệt tình ủng hộ. Chính vì thế tiếng nói và thông tin của các Blog điện tử độc lập đã nhiều lúc áp đảo được toàn hệ thống báo chí với trên 800 () báo, đài và cả hàng chục ngàn kí giả và vận động viên của bộ máy tuyên truyền khổng lồ của chế độ toàn trị.

Chính đứng trước các áp lực ngày càng mạnh cả trong đảng lẫn ngoài xã hội, phe giáo điều bảo thủ đã thấy, nếu không có thay đổi - dù chỉ là tạm thời hay bề ngoài- từ nội trị lẫn ngoại giao thì họ không thể trụ lại được trong Đại hội 12.

Đồng sang dị mộng và mượn gió bẻ măng

Phải thấy rõ hoàn cảnh gian nan hiện nay của phe bảo thủ giáo điều từ trong đảng tới nhân dân và với người 'Bạn' lớn Bắc kinh, mới có thể hiểu được động cơ và ý đồ của sự thay đổi thái độ và đi đến thay đổi sách lược hiện nay của Nguyễn Phú Trọng. Theo lời của Nguyễn Phú Trọng thì chính phủ Mĩ đã mời ông từ 2012 (nói với cử tri Hà Nội). Nhưng khi ấy do thái độ cao ngạo CS và tự tin nên ông Trọng trong tư cách tân Tổng bí thư đã gởi trọn niềm tin vào Bắc kinh và nghĩ mình sẽ thành công trong kế hoạch chỉnh đảng để đưa VN tiến nhanh tiến mạnh lên XHCN… nên đã khước từ lời mời của Hoa Kì. Nhưng chỉ vài năm sau, mặc dù TT Obama chỉ dùng nghi lễ bình thường so với các nghi lễ rất trịnh trọng của Tập Cận Bình giành cho ông vài tháng trước, nhưng ông Trọng vẫn phải thân hành sang Washington. Ông Trọng đã phải chịu tạm gác thái độ thách lối kiêu hãnh là “Mình phải như thế nào thì người ta mới mời chứ” để bằng lòng âm thầm chấp nhận'Mình phải nguy khốn như thế nào thì mới phải đi cầu khẩn đế quốc chứ!' Đắng cay ngậm quả bù hòn để từ người cầm cờ “chống tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” và cảnh giác trước các “diễn biến hòa bình” nay phải thân hành bắt tay với 'đại tư bản' và 'đế quốc' để âm mưu tái thực hiện câu thần chú “Dĩ bất biến, ứng vạn biến”.

Trong tình thế “tứ bề thụ địch” như vậy thì họ phải tìm cách thoát hiểm. Vì vậy sau khi Tập Cận Bình từ chối dứt khóa lời khẩn khoản của Nguyễn Phú Trọng xin gặp để giải quyết trong vụ dàn khoan HD 981 thì một kế hoạch đối ngoại tìm cách thoát hiểm đã được triển khai với đối tượng tranh thủ là Hoa Kì. Kế hoạch này theo hướng dương đông kích tây, hư hư thực thực, mục tiêu ưu tiên trước mắt là làm sao trụ lại cho phe bảo thủ giáo điều tại Đại hội 12 đầu 2016, phá kế hoạch tìm cách đánh sụp của các nhóm lợi ích. Trong đó phải làm sao dựng được các ấn tượng nổi bật để tạo dư luận cả trong đảng lẫn nhân dân có cảm tưởng là họ còn nắm được chủ động, được sự ủng hộ của siêu cường Hoa Kì, mà không phải thiệt thòi gì, thể chế toàn trị vẫn giữ được.

Vì thế ngay từ hè 2014 một số phái đoàn cao cấp làm tiền trạm, như ủy viên Bộ chính trị kiêm Bí thư thành ủy Hà Nội Phạm Quang Nghị (7.14) và ủy viên Bộ chính trị kiêm bộ trưởng Công an Trần Đại Quang (3.15) đã được lần lượt được phái sang Mĩ vận động trực tiếp với chính phủ Obama, chính giới trong lưỡng viện Hoa Kì và dư luận Mĩ cho chuyến thăm của Nguyễn Phú Trọng. Nhưng trước đó ông Trọng đã sang Bắc kinh gặp Tập Cận Bình để tìm cách trấn an và đồng thời tạo thế tốt để đàm phán với Obama. [13]

Nhân dịp kỉ niệm 20 năm thiết lập quan hệ Việt-Mĩ Nguyễn Phú Trọng kéo theo một phái đoàn cao cấp đã chính thức thăm Hoa Kì từ 6-10.7.2015. Ngày 7.7 ông Trọng đã hội đàm khoảng hơn một giờ với Obama tại phòng bầu dục tòa Bạch ốc…Các vấn đề chính hai bên đã đưa ra bàn là: 1. Việc VN xin gia nhập TPP (Hiệp định đối tác thương mại xuyên Thái bình dương) và quan hệ kinh tế-đầu tư, giáo dục giữa hai nước. 2. Tình hình vi phạm nhân quyền ở VN. 3. Yêu cầu Hoa Kì bãi bỏ lệnh cấm bán vũ khí sát thương. 4. Tình hình biển Đông.

Việc xin gia nhập TPP, Obama vẫn giữ lập trường là chế độ toàn trị VN phải cải thiện luật lao động theo hướng để người lao động VN được quyền thành lập các nghiệp đoàn độc lập để bảo vệ quyền lợi chính đáng. Chế độ toàn trị phải chấm dứt chủ trương bất bình đẳng trong các hoạt động kinh tế bằng cách chấm dứt việc giành ưu đãi cho các Doanh nghiệp nhà nước. Trong dịp này Nguyễn Phú Trọng chỉ khẩn khoản lên tiếng yêu cầu Hoa Kì thông cảm, khoan nhượng và công nhận nền Kinh tế thị trường định hướngXHCN ở VN là Kinh tế thị trường. Cuối cùng, dù đã được đưa ra ở cấp cao nhất, nhưng chủ đề quan trọng này vẫn không đạt được kết quả cụ thể nào. Trong “Tuyên bố về tầm nhìn chung VN-Hoa Kì” công bố ngày 7.7 các đòi hỏi của phía Mĩ đối với chế độ toàn trị lại được ghi rất rõ, dù dưới ngôn ngữ ngoại giao:

'Việt Nam và Hoa Kỳ mong đợi phối hợp chặt chẽ với các bên tham gia đàm phán khác để hoàn tất sớm nhất có thể Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) toàn diện và tiến hành những cải cách thấy có thể cần thiết nhằm đáp ứng tiêu chuẩn cao của Hiệp định TPP, kể cả khi cần thiết đối với các cam kết liên quan tới Tuyên bố của ILO năm 1998 về Nguyên tắc cơ bản và Quyền tại nơi làm việc.' [14]

Về chủ đề vi phạm nhân quyền ở VN: Trước khi tiếp ông Trọng TT Obama đã gặp riêng nhà báo Điếu Cày, Nguyễn Văn Hải, người đấu tranh dân chủ từng bị chế độ toàn trị cầm tù nhiều năm ở VN và do can thiệp của chính quyền Hoa Kì nên đang sinh sống và hoạt động tại Mĩ.[15] Việc Obama gặp riêng nhân vật đối lập trước khi tiếp Nguyễn Phú Trọng đã như cái tát tai với Tổng bí thư chế độ toàn trị. Nhưng trong cuộc hội đàm với Obama ông Trọng vẫn phủ nhận tình trạng chà đạp nhân quyền ở VN. Trong cuộc họp báo tại tòa Bạch ốc Nguyễn Phú Trọng vẫn ngụy biện và ngoan cố cho rằng, chế độ toàn trị 'chỉ xử lí vì họ vi phạm pháp luật', xác nhận “nhận thức hai bên còn khác nhau” và kêu gọi Mĩ, 'những khác biệt không nên cản trở hợp tác'!

Tuy nhiên trong Thông cáo chung Việt-Mĩ “Tuyên bố về tầm nhìn chung VN-Hoa Kì” chủ đề tình hình nhân quyền ở VN đã chiếm một phần rất quan trọng và nêu ra những điểm rất rõ đòi hỏi chế độ toàn trị ở VN phải tôn trọng. Từ những điều tổng quát về nhân quyền với mọi công dân, còn nhấn mạnh tới cả “bao gồm cả những thành viên của các nhóm dễ bị tổn thương, không phân biệt giới, chủng tộc, tôn giáo” –tức là chế độ toàn trị phải tôn trọng tự do thành lập và hoạt động của các tổ chức dân sự. Ngoài ra còn nhấn mạnh tới đòi hỏi chế độ toàn trị phải thực sự tôn trọng và thực hiện triệt để các Công ước Quốc tế về Nhân quyền, như Công ước về chống Tra tấn:

'Hai nước hứa hẹn tiếp tục ủng hộ việc thúc đẩy và bảo vệ quyền con người và ủng hộ việc duy trì đối thoại tích cực, thẳng thắn và xây dựng về quyền con người nhằm tăng cường hiểu biết lẫn nhau, thu hẹp khác biệt.

Hai nước khuyến khích sự hợp tác hơn nữa nhằm bảo đảm rằng mọi người, bao gồm cả những thành viên của các nhóm dễ bị tổn thương, không phân biệt giới, chủng tộc, tôn giáo hoặc khuynh hướng giới tính, bao gồm cả người tàn tật, được hưởng đầy đủ các quyền con người.

Hoa Kỳ hoan nghênh những nỗ lực hiện nay của Việt Nam hài hòa hóa luật với Hiến pháp năm 2013 và các cam kết quốc tế mà Việt Nam thực hiện nhằm phát triển toàn diện đất nước, kể cả trong việc thúc đẩy và bảo vệ quyền con người và các quyền tự do cơ bản.

Hoa Kỳ hoan nghênh việc Việt Nam phê chuẩn Công ước về chống Tra tấn và các Hình thức Đối xử hoặc Trừng phạt Tàn bạo, Vô nhân đạo hoặc Hạ nhục Con người và Công ước về Quyền của Người Khuyết tật, và hai nước mong muốn thúc đẩy hợp tác kỹ thuật trong lĩnh vực này.' [16]

Ngoài ra, trước khi gặp Nguyễn Phú Trọng, Thượng nghị sĩ McCain, Chủ tịch Ủy ban Quốc phòng Thượng viện Hoa kì, cũng đã ra thông cáo và nhấn mạnh đặc biệt về nhân quyền ở VN, nhưng báo chí chế độ toàn trị đã không dám phổ biến:

"Hoa Kỳ sẽ tiếp tục hỗ trợ xã hội dân sự ở Việt Nam, bao gồm việc ủng hộ quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, và quyền của người lao động, như một phần của mối quan hệ giữa hai nước. Chính quyền Việt Nam gần đây đã tiến một bước khiêm tốn nhưng đáng cổ vũ trong việc cải thiện tình hình nhân quyền, và Hoa Kỳ phải tiếp tục hỗ trợ tất cả các công dân Việt Nam - những người tìm cách xây dựng bằng những phương thức hòa bình một quốc gia giàu và mạnh, tôn trọng quyền con người và pháp trị..." [17]

Nếu trong 'Tuyên bố về Tầm nhìn chung Việt Nam - Hoa Kỳ' đã dành một phần rất dài nói về chủ đề nhân quyền ở VN thì việc Hà Nội yêu cầu Mĩ sớm hủy bỏ lệnh cấm bán vũ khí sát thương lại chỉ ghi rất vắn tắt trong một câu: 

'Việt Nam và Hoa Kỳ tái khẳng định tiếp tục hợp tác song phương trong lĩnh vực quốc phòng và an ninh, như đã được đề cập trong Tuyên bố Tầm nhìn chung về Quan hệ Quốc phòng Việt Nam - Hoa Kỳ.'[18]

Vì thế có thể hiểu là, việc hủy bỏ lệnh cấm bán vũ khí sát thương cho VN tùy thuộc chính liệu chế độ toàn trị có chấm dứt đàn áp nhân quyền hay không. Vì ở Hoa Kì hành pháp không thể qua mặt lập pháp. Lưỡng viện và dư luận Hoa Kì không thể làm ngơ việc dùng súng đạn, thiết giáp Mĩ bắn giết những người đấu tranh dân chủ theo tinh thần bất bạo động ở VN.

Một điểm duy nhất có sự đồng thuận của hai bên là tình hình biển Đông. TT Obama và Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đã xác nhận tình hình biển Đông đang căng thẳng đến mức độ nguy hiểm. Tuy không nêu tên trực tiếp Trung quốc, nhưng cả hai bên đã yêu cầu nhà cầm quyền Bắc kinh phải xuống thang, nhìn nhận những nguyên tắc về luật biển quốc tế, tôn trọng đường hàng hải quốc tế và phải thảo luận với các nước trong khu vực và các quốc gia có quyền lợi thiết thực để đảm bảo hòa bình trên biển Đông. Việc này xác nhận là, việc gởi gấm “niềm tin” vào Bắc kinh từ Nguyễn Phú Trọng tới Nguyễn Tấn Dũng trong những năm qua hoàn toàn là không tưởng, cũng như phải nhìn nhận chủ trương chỉ muốn đàm phán song phương với Bắc kinh và bác bỏ quốc tế hóa tranh chấp biển Đông của nhóm cầm đầu CSVN từ bao năm qua đã thất bại và phá sản!:

'Hai nước bày tỏ quan ngại về những diễn biến gần đây ở Biển Đông làm gia tăng căng thẳng, xói mòn lòng tin và đe dọa làm phương hại đến hòa bình, an ninh và ổn định.

Hai nước nhấn mạnh sự cần thiết đề cao các quyền tự do hàng hải và hàng không được quốc tế công nhận; thương mại hợp pháp không hạn chế, an ninh và an toàn hàng hải; kiềm chế những hành động làm gia tăng căng thẳng; bảo đảm tất cả các hành động và hoạt động phải phù hợp với luật pháp quốc tế; phản đối việc ép buộc, hăm dọa, sử dụng hoặc đe dọa sử dụng vũ lực.

Hai nước ủng hộ giải quyết hòa bình các tranh chấp theo luật pháp quốc tế, kể cả như đã được thể hiện trong Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật Biển ngày 10-12-1982 (UNCLOS), và thừa nhận tầm quan trọng của việc thực hiện đầy đủ toàn bộ Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC), đồng thời ủng hộ các nỗ lực nhằm đạt được Bộ quy tắc ứng xử của các bên ở Biển Đông (COC).'[19]
Nói tóm lại, ngoài vấn đề biển Đông, quan điểm giữa Obama và Nguyễn Phú Trọng rất khác biệt trên những điểm chính. Đặc biệt những vấn đề này lại liên quan trực tiếp chính trị, kinh tế của VN hiện nay và tương lai. Nguyễn Phú Trọng muốn sang Mĩ ngủ chung giường với Obama, nhưng rõ ràng là đồng sàng dị mộng!

Nguyễn Phú Trọng cố tình lấp liếm những thất bại trong việc thuyết phục Obama trong các vấn đề quan trọng trên. Nhưng ông đã tìm cách đề cao việc tiếp người cầm đầu ĐCSVN của TT Obama là sự 'tôn trọng thể chế chính trị', tức là 'thừa nhận vai trò lãnh đạo của ĐCSVN.'[20] Nguyễn Phú Trọng và phe bảo thủ giáo điều cố tình thổi phồng điều này trước dư luận là chính họ mới những người đang ra tay bảo vệ cho chế độ toàn trị, chứ không phải Nguyễn Tấn Dũng và phe nhóm lợi ích. Từ nay tới Đại hội 12 họ sẽ còn đề cao mạnh mẽ 'thắng lợi' này theo ý đồ mượn gió bẻ măng để áp đảo tinh thần, chia rẽ nội bộ để cắt vây cánh của phe nhóm lợi ích đứng đầu là Nguyễn Tấn Dũng.

Nhưng nếu bình tâm và nghiêm túc cân nhắc thì đây chỉ là lí luận vơ vào, nói lấy được vì nhiều lẽ. Về mặt công pháp quốc tế, khi các nước lập quan hệ ngoại giao với nhau là mặc nhiên nhìn nhận thể chế chính trị HIỆN TẠI của hai bên. Về thực tế, VN và HoaKì thiết lập quan hệ ngoại giao với nhau từ 20 năm. Các TT Mĩ Clinton và Bush đã thăm chính thức VN và đã từng gặp các Tổng bí thư Lê Khả Phiêu và Nông Đức Mạnh, các Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết, Trương Tấn Sang và các Thủ tướng Phan Văn Khải, Nguyễn Tấn Dũng cũng đã tới Mĩ. Những sự kiện này cho thấy không phải qua chuyến đi của Nguyễn Phú Trọng thì Mĩ mới nhìn nhận chế độ chính trị hiện hành ở VN, mà đã từ 20 năm.

Vì vậy, việc cố tình thổi phồng trên đây của Nguyễn Phú Trọng và báo chí lề đảng chỉ mới là nửa sự thật. Nửa sự thật kia họ không dám nói tới, đó là khi hai bên đặt quan hệ toàn diện trên mọi mặt thì mỗi bên đều có quyền đặt liên hệ dân sự với công dân và các đoàn thể của nước liên hệ. Trong tương quan hai chiều và đa diện này thì chế độ chính trị-kinh tế nào có sức thuyết phục cao hơn, mạnh hơn, được nhân dân nước liên hệ yêu mến, tin tưởng thì sớm muộn sẽ dẫn tới thay đổi thể chế chính trị. Dù chế độ toàn trị có hù dọa 'tự diễn biến, tự chuyển hóa'. Đây là sự thực và qui luật của chính trị từ cổ chí kim, từ đông sang tây, rõ ràng nhất là những chuyển hóa chế độ chính trị một cách hòa bình từ toàn trị sang Dân chủ đa nguyên ở các nước Đông Âu hơn hai thập niên trước đây!

Suốt thời gian trước-trong và sau chuyến đi Mĩ các hình ảnh và tường thuật đã tràn ngập báo chí của chế độ. Các bài nói xấu Hoa Kì không còn, chỉ thấy những hình ảnh và những bài tường thuật các cuộc gặp Nguyễn Phú Trọng với Obama, đại diện lưỡng viện, các doanh nhân Hoa Kì, các học viện nghiên cứu… Lúc đầu tờ điện tử Chính phủ dưới quyền Nguyễn Tấn Dũng chỉ đăng rải rác một số bài, nhưng các ngày tiếp theo cũng phải đăng nhiều hơn.

Thâm ý trước mắt của Nguyễn Phú Trọng cho chuyến đi Mĩ là nhằm ý đồ thực hiện âm mưu đồng sàng dị mộng để mượn gió bẻ măng nhằm cứu phe bảo thủ giáo điều đang đứng trước trận cuồng phong chính trị do phe nhóm lợi ích thổi lên ngay trước Đại hội 12! Như vậy đây chỉ là giải pháp tình thế.

Những sự kiện mới đáng chú ý sau chuyến đi Hoa Kì của Nguyễn Phú Trọng

Vừa trở lại được vài hôm, ngày 16.7 Nguyễn Phú Trọng đột ngột chủ trì 'Hội nghị Cán bộ toàn quốc quán triệt, triển khai thực hiện Chỉ thị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác bảo đảm an ninh, trật tự trong tình hình mới', trong đó tự đề cao kết quả chuyến đi Hoa Kì của ông. Nhưng tham dự chỉ có Nguyễn Phú Trọng, Trương Tấn Sang và Lê Hồng Anh, không thấy Nguyễn Tấn Dũng và Nguyễn Sinh Hùng. Kết thúc hội nghị này ông Trọng đã “phân tích, làm sáng tỏ một số diễn biến cơ bản của tình hình trong nước và thế giới” và khẳng định:

'Đây là một Hội nghị rất quan trọng và cần thiết, được tổ chức do đòi hỏi của tình hình, nhiệm vụ công tác bảo vệ an ninh, trật tự trong tình hình mới. Vấn đề mấu chốt là phải quán triệt sâu sắc và chỉ đạo tổ chức thực hiện quyết liệt những nhiệm vụ, giải pháp mà Chỉ thị của Bộ Chính trị đã đề ra.'[21]

Tại sao bảo là 'rất quan trọng và cần thiết, được tổ chức do đòi hỏi của tình hình, nhiệm vụ công tác bảo vệ an ninh, trật tự trong tình hình mới', nhưng Nguyễn Tấn Dũng, người cầm đầu chính phủ lại không có mặt? Có phải Nguyễn Phú Trọng đang tìm cách mượn gió bẻ măng sau chuyến đi Hoa Kì bằng cách triệu tập các cán bộ cao cấp toàn đảng để áp đảo tâm lí, lung lạc tinh thần, tạo lợi thế cho phe bảo thủ giáo điều trong vài tháng cuối trước Đại hội 12?

Hội nghị này diễn ra cùng ngày khi Phó thủ tướng Trung quốc Trương Cao Lệ, người đứng thứ năm trong số các ủy viên thường trực Bộ chính trị và vây cánh của Tổng bí thư và Chủ tịch nước Tập Cận Bình và cùng lúc tình hình biên giới VN-Kambodscha đang rất căng thẳng. Khi tiếp họ Trương Nguyễn Tấn Dũng đã nói:

“Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cho biết, quan hệ Việt-Trung là quan hệ rất đặc biệt, Việt Nam luôn ghi nhớ và kiên định giữ gìn tình hữu nghị vừa là đồng chí vừa là anh em giữa Việt Nam và Trung Quốc.” [22]

Trong buổi hội kiến này Trương Cao Lệ cho biết là, Tập Cận Bình được mời sang VN và đổi lại ông Lệ nói là Bắc kinh 'mời Nguyễn Tấn Dũng sớm sang thăm Trung quốc'.[23] Nhưng trong bản tin nói về cuộc tiếp Trương Cao Lệ của Nguyễn Phú Trọng, sau khi gặp Nguyễn Tấn Dũng, thì không thấy ông Trọng ngỏ lời mời Tập Cận Bình.[24]Các sự kiện này để lộ những dấu hiệu không bình thường giữa Nguyễn Phú Trọng và Nguyễn Tấn Dũng cũng như giữa Hà Nội và Bắc kinh. Về nghi lễ ngoại giao giữa hai ĐCSVN và Trung quốc, mời cấp nào thì người đứng đầu cấp đó đứng ra chính thức mời. Nghĩa là mời Tập Cận Bình thăm thì chỉ Nguyễn Phú Trọng mới được làm việc này, chứ không phải là Nguyễn Tấn Dũng. Nhưng tại sao ông Dũng đã qua mặt ông Trọng để đứng ra mời Tập Cận Bình? Mặt khác nữa là tại sao nhóm cầm đầu Bắc kinh lại chỉ mời Nguyễn Tấn Dũng và mong ông ta sớm thăm Trung quốc? Bắc kinh muốn vực Nguyễn Tấn Dũng để trả đũa Nguyễn Phú Trọng gặp Obama? Rõ ràng đây là chủ ý gây chia rẽ và phân hóa ngay trong nhóm cầm đầu CSVN, đặc biệt giữa giữa hai đối thủ Nguyễn Phú Trọng và Nguyễn Tấn Dũng, ngay thời gian trước Đại hội 12, việc này có lơi cho Bắc kinh trong chính sách chia để trị.

Dấu hiệu nữa là, trong khi Nguyễn Phú Trọng thăm Hoa Kì thì tình hình biên giới VN-Kambodscha rất căng thẳng, người dân Kambodscha đã biểu tình ở biên giới, quân đội hai bên đã được báo động. Không những thế Bắc kinh còn mời hai bộ trưởng Quốc phòng Kambodscha và Lào thăm. [25] Bắc kinh hỗ trợ tài chính để Lào xây đường cao tốc từ biên giới Trung quốc xuống phía nam Lào, đồng thời Lào sẽ tiếp tục thực hiện dự án thủy điện trên sông Cửu long, một việc CSVN đã nhiều lần ngăn cản. Tất cả những sự kiện này cho thấy, Bắc kinh đang chiếm sân sau của CSVN là Lào và Kambodscha và còn sử dụng hai nước này trở thành đối thủ của VN. Đây là thủ đoạn răn đe, chia để trị của Bắc kinh với Hà Nội từ trước tới nay. Chính vì vậy Nguyễn Phú Trọng vẫn không dám dứt khoát với Bắc kinh. Thật vậy, tướng Nguyễn Chí Vịnh, từng tháp tùng ông Trọng sang Mĩ, ngày 28.7 khi dự kỉ niệm 88 năm thành lập Quân đội giải phóng Trung quốc tại sứ quán Trung quốc ở Hà Nội đã 'khẳng định quan hệ Việt Trung không bao giờ thay đổi và Trung quốc luôn là ưu tiên hàng đầu trong chính sách đối ngoại của Đảng.' [26]

Tín hiệu khác rất đáng lưu ý liên quan tới bệnh tình của tướng Phùng Quang Thanh, ủy viên Bộ chính trị và bộ trưởng Quốc phòng. Bộ quốc phòng là một cơ quan công quyền quan trọng, nên các tin tức liên quan tới sức khỏe của người đứng đầu bộ phải được thông tin chính xác và kịp thời. Đây là cách ứng xử trong các xã hội Dân chủ đa nguyên. Chính Nguyễn Tấn Dũng đã từng tuyên bố trong thời đại internet không thể dấu dư luận được, mà cần thông tin minh bạch. Bộ Quốc phòng dưới quyền trực tiếp của Thủ tướng, nhưng suốt trong gần một tháng Phùng Quang Thanh chữa bệnh ở Paris các tin về sự vắng mặt và chữa bệnh của ông rất hiếm hoi, không rõ ràng và nhiều khi trái ngược nhau. Đặc biệt nữa là trong suốt thời gian 4 tuần Phùng Quang Thanh vắng mặt, tờ QĐND không đưa tin nào về tình hình chữa bệnh của người cầm đầu quân đội. Đáng chú ý nữa là, khi ông Thanh trở lại VN thì Nguyễn Phú Trọng và Trương Tấn Sang đã điện thoại thăm hỏi và sau đó còn gặp riêng. Trong khi ấy Nguyễn Tấn Dũng lại hoàn toàn im lặng với Phùng Quang Thanh, không điện thoại hay thăm người đứng đầu bộ Quốc phòng của chính phủ mình. Chuyện gì đang xẩy ra giữa hai ông Dũng và Thanh, cũng như giữa các phe trong quân đội? Nó có liên hệ gì tới chuyến đi Mĩ của Nguyễn Phú Trọng và cuộc đấu đá sống chết giữa các phe trước Đại hội 12?[27]

Con đường của chúng ta, những người dân chủ hãy vững bước tiến lên!

Bộ máy tuyên truyền khổng lồ đang tô son, vẽ rồng cho Nguyễn Phú Trọng sau 'chuyến đi lịch sử'. Trong đó Nguyễn Phú Trọng làm bộ kiêu hãnh chạy vào Tòa bạch ốc, chui lên giường của TT Obama để thực hiện mưu kế đồng sàng dị mộng với hai mục tiêu chính:

1. Trước mắt tìm cách chia rẽ, cô lập và ngăn chặn các nhóm lợi ích trong Trung ương đảng đứng đầu là Nguyễn Tấn Dũng để giành lại thế thượng phong cho phe bảo thủ giáo điều trong Đại hội 12 sắp tới.

2. Về dài hạn cố gắng kéo dài chế độ toàn trị, tiếp tục đàn áp nhân dân, giành độc quyền cho các Doanh nghiệp nhà nước và vẫn cúi đầu thần phục bá quyền Bắc kinh.

Âm mưu mượn gió bẻ măng này chẳng che dấu được ai. Vì đa số nhân dân, đi đầu là thanh niên, chuyên viên, trí thức, các văn nghệ sĩ, kể cả các đảng viên tiến bộ đều đã thấy rất rõ. Việc phải thân hành sang Hoa Kì cầu thân với 'tư bản' và 'đế quốc', dù chỉ là nhất thời, nhưng qua đó Nguyễn Phú Trọng đã phải thừa nhận:

1. Chính sách cúi đầu trước bá quyền Bắc kinh đã sai lầm và thất bại ê chề.

2. Mô hình cấu trúc hệ thống XHCN từ A tới Z với chủ thuyết Marx-Lenin đã bị phá sản toàn bộ: Từ chế độ đảng trị, đất đai là sở hữu công, Kinh tế nhà nước được ưu đãi, tới thủ tiêu các quyền tự do dân chủ và đàn áp những người khác chính kiến.

3. Chính các chủ trương sai lầm và lạc hậu này sau 70 năm cai trị đã đẩy đất nước tụt hậu, nghèo đói, thua kém so với nhiều nước trong khu vực, biến xã hội VN thành “CNTB lợi ích”, “CNTB bè phái”, “CNTB bè cánh”, “CNTB lũng đoạn”… của thời tư bản rừng rú, cá lớn nuốt cá bé, biến đảng thành các ổ nuôi bọn quan tham và nay chúng đang kết tụ với nhau đục khoét công quĩ và tài nguyên…

Từ nhiều năm qua thanh niên, nhân sĩ, trí thức dân chủ và đảng viên tiên bộ đã cảnh báo nhóm cầm đầu toàn trị, nhưng đã không được lưu tâm trái lại còn bị xuyên tác và tù tội!

Từ nay tới Đại hội 12 hai phe bảo thủ giáo điều và các nhóm lợi ích sẽ còn tung nhiều đòn đánh phá tàn bạo lẫn nhau để giành thượng phong cho phe mình. Nhưng cũng có thể lại phải thỏa hiệp lười biếng với nhau để chia ghế giữ quyền như trong Đại hội 11. [28]

Trước hào nhoáng sau chuyến thăm Hoa Kì của Nguyễn Phú Trọng, nhóm cầm đầu bảo thủ đang hô hoán là đã được Mĩ ủng hộ và muốn âm mưu tái lập thủ đoạn đàn áp phong trào dân chủ và những người khác chính kiến, như các thủ đoạn tiêu giệt các đoàn thể và lãnh tụ không CS thời kì 45-46. Tuy nhiên khả năng này không còn lớn và không còn hiệu nghiệm nữa vì nhiều lẽ. Trước đây họ vừa cướp được chính quyền nên dân còn tin, còn kì vọng, chưa biết những người cầm đầu CS thực sự là ai, chủ trương và chính sách như thế nào. Nhưng nay sau 70 năm độc quyền cai trị và 40 năm thống trị cả nước thì qua bao nhiêu triệu nạn nhân, đất nước vừa độc tài vừa tụt hậu, chủ quyền đang bị đe dọa nghiêm trọng, trong khi ấy bọn quan đỏ tham nhũng bung ra như rươi, bọn tham quan 'ăn không chừa một thứ gì'. 

Vì thế nay nhân dân từ Bắc chí Nam đã thấy rất rõ bộ mặt thực giả nhân giả nghĩa, suy thoái đạo đức cùng cực, bất tài vô đức nhưng vẫn muốn kéo dài độc quyền của cả hai phe bảo thủ giáo điều cũng như các nhóm lợi ích. Mất uy tín ở trong nước, sự tan dã của Liên xô và thế giới CS đang làm băng hoại uy thế của chế độ toàn trị. Trong thời đại toàn cầu hóa và kỉ nguyên thông tin điện tử làm cho các nước, các khu vực gần nhau hơn, tùy thuộc nhau hơn, các thông tin được truyền tải chỉ trong vài giây tới hàng triệu triệu người, nó có khả năng làm tê liệt toàn bộ hệ thống tuyền truyền lừa bịp của các chế độ độc tài. Hiện nay tất cả những sức mạnh này, cả trong nước lẫn quốc tế, đang hội tụ với nhau trở thành những sức mạnh cả tư tưởng lẫn vật chất áp lực ngày càng mạnh lên chế độ toàn trị. Sức ép này đang đưa đến những phân hóa ngày càng sâu sắc ngay trong Trung ương đảng và Bộ chính trị. Thậm chí nay cả đến người cầm đầu phe bảo thủ giáo điều Nguyễn Phú Trọng cũng phải từ bỏ tất cả những ngôn từ của của Marx-Lenin trong cuộc hội đàm với TT Obam và các cuộc tiếp xúc với các đại diện lưỡng viện, các cơ quan nghiên cứu và các giới đầu tư!

Tuy nhiên chúng ta vẫn phải tỉnh táo đề phòng, vì hiện nay vẫn chứng nào tật ấy. Dù Nguyễn Phú Trọng hứa với Obama sẽ cải thiện nhân quyền, nhưng mới vài hôm trước họ vẫn để cho công an ngăn cản TS Nguyễn Thanh Giang tiếp khách tại tư gia ở Hà Nội; công an tiếp tục phong tỏa chùa Liên Trì, nơi Thượng tọa Thích Không Tánh giúp dân oan khiếu kiện[29]; và tại Nha Trang cũng như một số địa phương họ đã phái công an phá rối các cuộc 'tổng tuyệt thực toàn cầu' đòi tự do cho 'tù nhân lương tâm' của thanh niên và nhiều người dân chủ![30]

Chính vì thế không thể chỉ có sự chọn lựa giữa phe bảo thủ giáo điều hay bè cánh tham nhũng. Làm như thế có khác nào phải chọn giữa thổ tả và kiết lị, tránh vỏ dưa gặp vỏ dừa!

Những người dân chủ cần chủ động, tích cực đấu tranh và liên kết với nhau. Khi chế độ toàn trị gây ra những sai lầm, những tội ác với nhân dân thì phải cương quyết và có phương pháp hữu hiệu để nhân dân đứng lên xé rào. Sức mạnh của nhân dân được tổ chức tốt cùng với sự hậu thuẫn của các giới ở trong nước, kể cả các đảng viên tiến bộ, kết hợp với sự ủng hộ mạnh mẽ của thế giới sẽ làm cho bạo lực của công an mật vụ trở thành vô hiệu! Từ đó mở rộng phong trào đấu tranh đi lên!

Tỉnh táo, sáng suốt và có tầm nhìn thích hợp, cương quyết giữ vững phương pháp đấu tranh phi bạo lực, chúng ta sẽ tạo được sư tin tưởng của nhân dân, tham gia nhiệt tình của thanh niên, thuyết phục được cả những đảng viên tiến bộ và nhận được cảm tình cũng như sự giúp đỡ tận tình của các nước dân chủ. Cương quyết tố cáo trước nhân dân VN, dư luận Mĩ và quốc tế và bẻ gẫy mưu kế đồng sàng dị mộng, già vờ hòa với Mĩ để cứu phe bảo thủ giáo điều. Cương quyết đấu tranh bền bỉ và sáng suốt để đưa đất nước thật sự tiến vào quĩ đạo Dân chủ đa nguyên. Đó là phương hướng đúng đắn, thích hợp với lương tri và tầm nhìn của thời đại để chấm dứt độc tài toàn trị và kiến tạo một chế độ Dân chủ đa nguyên thực sự và bền vững. Đây là tiếng gọi của lương tâm và khát vọng của trí tuệ đối với tất cả các tầng lớp nhân dân, đi đầu là thanh niên, chuyên viên, trí thức, văn nghệ sĩ và những người cầm bút chân chính, kể cả những đảng viên tiến bộ!

Chế độ chính trị giữa Hoa Kì và VN hiện nay hoàn toàn khác biệt, hệ thống giá trị của xã hội hai nước hoàn toàn khác nhau. Hoa Kì là một chế độ Dân chủ đa nguyên tiên tiến, các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp độc lập với nhau; thượng tôn luật pháp, ngay cả Tổng thống cũng có thể bị Quốc hội truất phế nếu vi phạm pháp luật; chế độ Kinh tế thị trường đặt căn bản trên qui luật cạnh tranh lành mạnh; các quyền tự do dân chủ căn bản của công dân cũng như các đoàn thể được vinh danh và tôn trọng; báo chí hay quyền thứ tư ở Hoa Kì không chỉ được tự do hoạt động mà thường xuyên trở thành những mũi nhọn bảo vệ dân chủ tự do, những cai gai đối với những lạm dụng quyền lực. Trong 'Tuyên bố về tầm nhìn chung VN và Hoa Kì' phần về thực thi nhân quyền, phía Hoa Kì không chỉ đòi CSVN phải tôn trọng quyền cho các công dân mà còn cho cả các tổ chức dân sự…

Đồng sàng dị mộng, giả vờ chung chạ thì không thể tồn tại lâu dài được. Những người dân chủ cần biết đấu tranh hữu hiệu để bẻ gẫy mưu kế chỉ muốn hòa tạm thời và giả vờ với Hoa Kì. Các giới dân chủ trong nước cần nắm vai trò chủ động, liên kết với các cộng đồng VN ở nước ngoài và hợp tác với chính giới và các tổ chức dân sự ở Mĩ, EU và các nước dân chủ để từng bước chuyển đổi VN từ độc tài sang dân chủ, thiết lập liên minh toàn diện và lâu dài với Hoa Kì; như Nhật, Nam Hàn, Đức…đã thực hiện rất thành công.
Nếu bảo là chuyến đi Hoa Kì của Nguyễn Phú Trọng không phải là đồng sàng dị mộng, mà là thực tình dứt khóa muốn cắt dây thừng thòng lọng cổ của Bắc kinh và muốn thực hiện dân chủ thực sự… thì Nguyễn Phú Trọng chỉ cần chứng minh rất đơn giản một số việc nó nằm trong tầm tay quyền lực Tổng bí thư của ông. Đó là 1. Trả tự do tất cả các tù chính trị và tôn giáo. 2. Bỏ Điều 4 Hiến pháp 2013. 3. Chấm dứt ngay sự độc quyền của hệ thống Kinh tế nhà nước. 4. Ban bố ngay luật biểu tình. 5. Đình chỉ hợp tác chiến lược toàn diện với Bắc kinh.

Đây là 5 lãnh vực thể hiện cao độ tính dân chủ và tiến bộ của thời đại, giải quyết được nguy cơ Bắc thuộc và chuyển đất nước thực sự vào kỉ nguyên dân chủ, văn minh, độc lập và phú cường. Một số việc trên phải làm ngay, một số việc phải thực hiện chậm nhất là Đại hội 12 vào đầu 2016. Cho nên nếu thực hiện nghiêm túc và thành thực 5 điểm nêu trên thì ĐCS sẽ biến thành một chính đảng dân chủ tiến bộ và chính quyền cũng thành dân chủ. Còn vẫn cứ khư giữ nó thì tự chứng minh là độc tài bảo thủ và phản động! Nhân dân ta đã chờ đợi và chịu đựng quá lâu, quyết không nghe hứa xuông mãi nữa!

1.8.2015


Âu Dương Thệ
danlambaovn.blogspot.com

_________________________________________

Ghi chú:
[2] Vương Văn Bắc, Lịch sử chính trị VN hiện đại, Viện Đại hội Đà lạt, 1966; Vụ án án Ôn Như Hầu:https://vi.wikipedia.org/wiki/V%E1%BB%A5_%C3%A1n_ph%E1%BB%91_%C3%94n_Nh%C6%B0_H%E1%BA%A7u
[3] Cùng tác giả, Vấn đề không phải đi thăm hay không:Nhưng chính là, đi chỉ để thỏa mãn tự ái cá nhân hão, hay để phục vụ quyền lợi dân tộc?http://www.dcvapt.net/thoisu/baithoisu2015/adt203.htm
[4] Cùng tác giả, Đặt lại những vấn đề căn bản của quyền lực ở VN hiện nay:Quyền lực phát ra từ nòng súng! http: //www.dcvapt.net/thoisu/baithoisu2014/adt209.htm
[5] Xem các bài và hình ảnh của ngay báo chí lề đảng về tư gia Nông Đức Mạnh, Lê Khả Phiêu vàLKP,Trần Văn Truyền
[7] Tương tự (tt)
[8] Cùng tác giả, hai năm làm Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đang đưa chế độ và đất nước đi về đâu? Phần I-III ,http://www.dcvapt.net/thoisu/baithoisu2013/adt3.htm
[9] Cùng tác giả, Hội nghị trung ương 10:http://www.dcvapt.net/thoisu/baithoisu2015/adt211.htm
[10] BBC25.6.15 
[11] Thông báo Hội nghị trung ương 11, Chính phủ (CP) 7.5
[13] Cùng tác giả, Trái táo rơi không thể xa cây táo, chuyến đi Bắc kinh của Nguyễn Phú Trọng: http://www.dcvapt.net/thoisu/baithoisu2015/adt184.htm
[14] “Tuyên bố về tầm nhìn chung VN-Hoa kì”http://dangcongsan.vn/cpv/Modules/News/NewsDetail.aspx?co_id=30257&cn_id=722377;
https://www.youtube.com/watch?v=2d-mlrie_k
[16] tt 14
[17] VNTB 9.7
[18] tt 14
[19] tt 14
[20] Phạm Bình Minh, 20 năm qhe VN-Hoa kì, chặng đường ngắn, bước đi dài, TCCS 11.7; VN Net (VNN) 23.7.
[22] Đài Bắc kinh (ĐBắc kinh) 18.7
[23] VNN16.7
[24] CS 17.7
[25] ĐBắc kinh 10.7, 16.7
[26] RFA 31.7
[27] BBC 29.7
[28] tt 8
[29] RFI 25.7
[30]BBC 27.7

*

Mục Thời sự Tạp chí Dân chủ & Phát triển điện tử:
Email: dcvapt@gmail.com