Sunday, June 1, 2014

Nền kinh tế Việt Nam bị lấn át thế nào?

 - 

 Hàng Trung Quốc đang áp đảo hàng Việt Nam.
Hàng Trung Quốc đang áp đảo hàng Việt Nam.
Từ những cây kim, sợi chỉ trong các gia đình cho đến những tổ hợp máy trong các đại dự án công nghiệp; từ mặt trận thương mại đến công nghiệp, hàng Trung Quốc đang áp đảo hàng Việt Nam.
Nhóm sản phẩm máy và thiết bị đồng bộ có giá trị nhập khẩu hàng năm tới 10 tỉ đô la Mỹ. Một khảo sát của Viện Nghiên cứu cơ khí trong suốt giai đoạn 2003-2013 cho thấy, Trung Quốc đang thống trị nhóm sản phẩm này ở bốn trong năm ngành chính là thủy điện, nhiệt điện, xi măng, bauxite, và sàng tuyển than tại Việt Nam.
Về thủy điện, Việt Nam đủ năng lực làm tổng thầu, tỷ lệ nội địa hóa thành công đạt 30%. Đến nay, Việt Nam hoàn toàn có thể làm chủ thiết kế, chế tạo thiết bị cơ khí thủ công cho 30 nhà máy thủy điện bao gồm Sơn La, Lai Châu với tỷ lệ nội địa hóa đến 90%.
Song đây là điểm sáng duy nhất.
Ngành công nghiệp xi măng có 24 nhà máy thì có đến 23 nhà máy do nước ngoài làm tổng thầu EPC (nhà thầu thực hiện toàn bộ công việc, từ thiết kế, cung cấp máy móc, thiết bị đến thi công xây dựng, vận hành chạy thử rồi bàn giao). Các dự án EPC do Trung Quốc làm tổng thầu có tỷ lệ nội địa hóa 0%. Theo Viện Nghiên cứu cơ khí, về mặt kỹ thuật, người Việt Nam có thể thiết kế, chế tạo trong nước tới 40% giá trị thiết bị của các nhà máy này.
Với công nghiệp nhiệt điện đốt than, trong 20 dự án đã và đang đầu tư, có tới 15 dự án do nhà thầu Trung Quốc làm tổng thầu EPC với tỷ lệ nội địa hóa 0%.
Trung Quốc hiện là nhà thầu lớn nhất của Việt Nam. Các doanh nghiệp Trung Quốc đã trúng thầu EPC phần lớn các công trình năng lượng, khai khoáng, luyện kim ở Việt Nam.
Hai dự án công nghiệp nhôm và bauxite hiện nay đều do Trung Quốc làm tổng thầu EPC với tỷ lệ nội địa hóa chỉ vỏn vẹn 2%. Viện Nghiên cứu cơ khí trích dẫn Công ty Hatch của Úc cho rằng, Việt Nam có đủ năng lực thiết kế, chế tạo trong nước để đáp ứng 50% thiết bị trong ngành này.
Hiện tại, cả nước có ba nhà máy tuyển than, thì cả ba nhà máy này đều do nhà thầu Trung Quốc làm tổng thầu EPC, dù Việt Nam có thể hoàn toàn nội địa hóa được 50-70% giá trị thiết bị.
Vậy đâu là những nguyên nhân chính dẫn đến tổng thầu EPC rơi vào tay người Trung Quốc?
Thứ nhất, nhiều dự án vốn đầu tư phải vay từ Trung Quốc, và họ đặt ra các điều kiện như phải mua thiết bị từ chính thị trường Trung Quốc.
Bên cạnh đó, Luật Đấu thầu ưu tiên giá rẻ mà không chú ý đến nguồn gốc xuất xứ, không ưu tiên đúng mức tỷ lệ nội địa hóa, do vậy hầu hết các dự án rơi vào tay các nhà thầu Trung Quốc. Khi đó, các nhà máy chế tạo của Việt Nam hầu như không có cơ hội tham gia như nhà thầu phụ.
Trung Quốc hiện là nhà thầu lớn nhất của Việt Nam. Các doanh nghiệp Trung Quốc đã trúng thầu EPC phần lớn các công trình năng lượng, khai khoáng, luyện kim ở Việt Nam. Theo Bộ Công Thương, tổng nguồn vốn đầu tư cho các dự án công nghiệp có liên quan đến thị trường sản phẩm cơ khí giai đoạn 2013-2025 vào khoảng 289 tỉ đô la Mỹ. Với xu thế các nhà thầu Trung Quốc đang thắng thầu EPC như hiện nay, họ có thể sẽ chiếm phần lớn chiếc bánh này.
Không những thế, các gói thầu EPC do Trung Quốc thắng trong suốt 10 năm qua đã góp phần làm gia tăng nhanh chóng nhập siêu từ Trung Quốc.
Từ năm 2001 Việt Nam bắt đầu nhập siêu từ Trung Quốc với quy mô không ngừng tăng qua các năm với tốc độ chóng mặt, từ 200 triệu đô la Mỹ năm 2001 lên gần 24 tỉ đô la Mỹ năm 2013. Cần lưu ý tổng nhập siêu của Việt Nam, sau khi đạt đỉnh 18 tỉ đô la Mỹ vào năm 2008, bắt đầu xu thế giảm xuống từ năm 2009 đến nay, thậm chí năm 2012 và 2013 Việt Nam còn chuyển sang xuất siêu. Trong khi đó, nhập siêu từ Trung Quốc thì không hề giảm mà vẫn không ngừng tăng mạnh, từ 11 tỉ đô la Mỹ năm 2009 lên 24 tỉ đô la Mỹ năm 2013.
Vì sao nhập siêu từ Trung Quốc lại tăng mạnh đến vậy? Theo nhiều chuyên gia, có một số nguyên nhân chính như sau:
Thứ nhất, hàng Trung Quốc (từ máy móc thiết bị đến nguyên phụ liệu hay hàng tiêu dùng), hầu hết đều có giá rất rẻ do chi phí nhân công của Trung Quốc vào loại thấp nhất thế giới. Bên cạnh đó, Trung Quốc vẫn duy trì chính sách hỗ trợ xuất khẩu. Với giá rẻ, hàng tiêu dùng Trung Quốc được nhiều người tiêu dùng Việt Nam, đặc biệt người thu nhập thấp chấp nhận. Nguyên phụ liệu từ Trung Quốc được nhập khẩu nhiều cũng do giá rẻ, nhất là khi Việt Nam chưa có ngành công nghiệp phụ trợ đủ mạnh để cung cấp nguyên phụ liệu cho các ngành gia công xuất khẩu. Máy móc thiết bị giá rẻ của Trung Quốc được nhiều doanh nghiệp Việt Nam lựa chọn, nhất là các doanh nghiệp nhỏ và vừa do khả năng tài chính hạn chế của họ.
Thứ hai, khả năng cạnh tranh kém của hàng Việt Nam, xét cả về giá cả và chất lượng, khiến nhiều sản phẩm của Việt Nam khó vào được thị trường Trung Quốc. Ngoài ra, hầu hết hàng Việt Nam chưa có tên tuổi và thương hiệu trên thị trường quốc tế, nên càng khó cạnh tranh.
Thứ ba là trong cơ cấu sản phẩm trong thương mại Việt - Trung, Việt Nam chủ yếu xuất sang Trung Quốc khoáng sản, nông lâm thủy sản (chiếm trên 70% tổng kim ngạch xuất khẩu sang Trung Quốc). Đây là các sản phẩm có giá trị gia tăng thấp, giá cả lại bấp bênh và thường có xu hướng giảm, giá so sánh tương đối thấp so với các sản phẩm chế biến - chế tạo. Còn các sản phẩm nhập khẩu từ Trung Quốc chủ yếu là hóa chất, sản phẩm chế tác cơ bản, máy móc thiết bị, chiếm trên 80% tổng nhập khẩu từ Trung Quốc.
Thứ tư, Việt Nam hầu như không có hàng rào kỹ thuật đối với hàng nhập khẩu Trung Quốc, từ yêu cầu về vệ sinh an toàn thực phẩm đối với thực phẩm đến các tiêu chuẩn kỹ thuật, an toàn sử dụng đối với máy móc, thiết bị, đồ gia dụng. Do đó, hàng hóa của Trung Quốc bất kể chất lượng, phẩm cấp thế nào vẫn nhập khẩu được vào Việt Nam. Trung Quốc thì ngoài hàng rào kỹ thuật còn yêu cầu hàng Việt Nam sang Trung Quốc buộc phải qua một số cửa khẩu do Trung Quốc chỉ định (như hải sản chỉ được đi qua Móng Cái, cao su chỉ được đi qua Móng Cái, Lục Lầm, hoa quả tươi chỉ được qua Lào Cai, Lạng Sơn).
Bên cạnh đó, trong khi Việt Nam chưa tận dụng được bao nhiêu thì Trung Quốc triệt để khai thác lợi thế trong Hiệp định Thương mại tự do ASEAN - Trung Quốc và Hiệp định Thương mại tự do ASEAN với Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc (ASEAN+3). Chẳng hạn 10 năm sau khi Hiệp định ASEAN+3 có hiệu lực (2000-2010), xuất khẩu của Trung Quốc sang Việt Nam tăng 25 lần, trong khi xuất khẩu của Việt Nam sang Trung Quốc chỉ tăng 5 lần.
Tư Giang-TBKTSG

10 dự án lớn của nhà thầu Trung Quốc tại Việt Nam

  - 

Đường sắt đô thị Cát Linh- Hà Đông, dự án bị chậm tiến độ 2 năm
Đường sắt đô thị Cát Linh- Hà Đông, dự án bị chậm tiến độ 2 năm
Nhà thầu Trung Quốc đang tham gia nhiều dự án trọng điểm về hạ tầng, năng lượng của Việt Nam, trong đó nhiều trường hợp chậm trễ, đội vốn và gây tranh cãi.
Theo thống kê của Viện Nghiên cứu cơ khí (Bộ Công Thương) được công bố hồi đầu tháng 4/2014, Việt Nam hiện có 20 dự án nhiệt điện thì có 15 công trình được phía Trung Quốc làm tổng thầu. Với xi măng, tuy không nêu cụ thể nhưng đối với các dự án do Trung Quốc làm tổng thầu (trong tổng số 24 dự án), tỷ lệ nội địa hóa cơ bản được xác định là 0%.
Số liệu của Ủy ban Tài chính và Ngân sách Quốc hội công bố trước đây cũng cho thấy, tính đến năm 2010, có đến 90% các dự án tổng thầu EPC (tư vấn, thiết kế - cung cấp thiết bị - xây lắp, vận hành; hay nói cách khác là thực hiện dự án theo phương thức chìa khoá trao tay) của Việt Nam do nhà thầu Trung Quốc đảm nhiệm, trong đó chủ yếu là dầu khí, hóa chất, điện, dệt kim. Trong số này, các doanh nghiệp đến từ bên kia biên giới thực hiện tới 30 dự án trọng điểm quốc gia, trong đó có nhiều dự án “tỷ đô” của ngành điện. Dưới đây là 10 dự án lớn tại Việt Nam, do nhà thầu Trung Quốc đảm nhận vai trò chính hiện nay:
1. Đường sắt đô thị Cát Linh- Hà Đông
Cát Linh - Hà Đông là tuyến đường sắt đô thị đầu tiên ở Việt Nam với tổng mức đầu tư 552 triệu USD (thời giá năm 2008). Trong đó vốn ODA Trung Quốc 419 triệu USD, vốn tín dụng 169 triệu USD và đối ứng của Việt Nam là 133 triệu USD. Dự án gồm các hạng mục 13 km đường sắt trên cao, 1,7 km ra vào khu depot (sửa chữa), đường sắt đôi, 12 ga trên cao, nhà điều hành 9 tầng trong khu depot rộng 23 ha.
Công trình do Cục đường sắt Việt Nam làm chủ đầu tư. Tổng công ty Tư vấn và Thiết kế giao thông vận tải (TEDI) là tư vấn thiết kế. Gói thầu chính (thiết kế, cung cấp thiết bị, vật tư và xây lắp) do Công ty hữu hạn Tập đoàn cục 6 đường sắt Trung Quốc thực hiện theo hình thức tổng thầu EPC.
Theo báo Tiền Phong, nhà thầu Trung Quốc chuyên về xây lắp và lần đầu tiên làm tổng thầu EPC trên lĩnh vực đường sắt đô thị. Dù đã biết rõ năng lực của nhà thầu, nhưng do những ràng buộc trong hiệp định vay ODA, chủ đầu tư vẫn phải chấp nhận đơn vị này. Công ty hữu hạn Tập đoàn Cục 6 đường sắt Trung Quốc cũng đang tìm hiểu Dự án đường cao tốc Hạ Long – Móng Cái với tổng mức đầu tư dự kiến lên tới hàng chục nghìn tỷ đồng.
Thời gian triển khai của dự án Cát Linh - Hà Đông được đề ra lúc đầu là từ tháng 8/2008 đến 11/2013. Do chậm tiến độ, công trình giãn đến cuối năm 2015 mới hoàn thiện. Nguyên nhân được đưa ra là gần 2 km đường sắt đi qua các tuyến phố Đê La Thành - Hoàng Cầu - Láng quận Đống Đa vẫn chưa đổ trụ bê tông. Tại khu vực quận Hà Đông, 2 trong số 6 nhà ga chưa giải phóng xong mặt bằng… Việc chậm giải phóng mặt bằng, cùng với nhiều hạng mục thay đổi, biến động về giá nguyên vật liệu… đã khiến tổng mức đầu tư từ 552 triệu USD lên tới 891 triệu USD, tăng 339 triệu USD.
2. Dự án cao tốc Hà Nội - Hải Phòng
 
 
Trên công trường cao tốc Hà Nội- Hải Phòng . Ảnh: Vidifi
Dự án đường cao tốc Hà Nội-Hải Phòng có tổng mức đầu tư gần 25.000 tỷ đồng với chiều dài 105,5km từ đường vành đai 3 qua Hà Nội, Hưng Yên, Hải Dương, Hải Phòng. Đây là con đường cao tốc hiện đại nhất Việt Nam với 6 làn xe lưu thông và 2 làn dừng xe khẩn cấp, vận tốc thiết kế đạt 120 km mỗi giờ.
Chủ đầu tư là Tổng Công ty Phát triển hạ tầng và Đầu tư tài chính Việt Nam (VIDIFI). Dự án có 10 gói thầu trong đó Tập đoàn cầu đường tỉnh Sơn Đông, Trung Quốc đảm nhiệm gói thầu EX 8-9, Liên danh Công ty TNHH Đường cao tốc Trường Đại Quảng Đông và Công ty Hợp tác kỹ thuật và kinh tế quốc tế Quảng Châu (Trung Quốc) phụ trách gói thầu EX-5.
Công trình khởi công năm 2008 và dự kiến thông xe vào tháng 10/2015, nhưng đến nay vẫn vướng mắc ở nhiều vấn đề như giải phóng mặt bằng , thi công và tài chính. Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tiến độ khó hoàn thành là thiếu vốn. Tại một cuộc họp với Bộ Giao thông vừa qua, cùng với một số nhà thầu Hàn Quốc, đại diện nhà thầu Sơn Đông, Tổng công ty Cầu đường (Trung Quốc) cam kết sẽ cung cấp đủ tài chính theo tiến độ và đang làm thủtục chuyển tiền nhưng khi được hỏi về mốc thời gian thì đại diện các nhà thầu bỏ ngỏ.
3. Đường cao tốc Nội Bài - Lào Cai
Dự án xây dựng cao tốc Nội Bài - Lào Cai có tổng chiều dài là 245 km đi qua Hà Nội và các tỉnh Vĩnh Phúc, Phú Thọ, Yên Bái, Lào Cai, được chia làm 8 gói thầu xây lắp với tổng mức đầu tư gần 20.000 tỷ đồng. Đây là một trong những tuyến cao tốc lớn nhất hiện nay do Tổng công ty đường cao tốc (VEC) làm chủ đầu tư dự án. Phần lớn tuyến đường do nhà thầu Hàn Quốc thi công (chiếm 6/8 gói thầu). Gói thầu còn lại do Công ty cầu đường Quảng Tây (Trung Quốc) thực hiện.
Dự án khởi công từ tháng 9/2009 và dự kiến thông xe toàn tuyến vào cuối tháng 6/2014, chậm 2 năm so với kế hoạch ban đầu.
Chủ đầu tư lý giải dự án chậm tiến độ do khâu giải phóng mặt bằng ì ạch. Bên cạnh đó, năng lực thi công của các nhà thầu yếu kém, không huy động đủ thiết bị, vật liệu... Còn đại diện cơ quan tư vấn giám sát chỉ ra nguyên nhân dự án trì trệ do nhà thầu chính thuê các nhà thầu phụ yếu kém. Tại dự án cao tốc này, trong khi tập đoàn Doosan thuê 20 nhà thầu phụ thì Công ty cầu đường Quảng Tây chỉ thuê 3 thầu phụ và tự triển khai nhiều hạng mục. Các thầu phụ thường thuê lao động địa phương có tay nghề thấp, thậm chí là nông dân để làm đường.
Tháng 8/2012, dự án lại gây xôn xao về chi phí đền bù giải phóng mặt bằng. Thấy người dân xã kế bên nhận gần 240 triệu đồng một sào ruộng phục vụ cao tốc, còn mình chỉ nhận được hơn 40 triệu đồng, cả trăm người dân thị xã Phúc Yên (Vĩnh Phúc) đã dựng lều bạt ngay trên công trường để phản đối.
Tháng 12/2013, đoạn cao tốc từ huyện Sóc Sơn (Hà Nội) đến huyện Tam Dương (tỉnh Vĩnh Phúc) dài 26 km đã chính thức hoạt động. Đầu tháng 4, đoạn đường từ điểm giao cắt với quốc lộ 2B sang quốc lộ 2, qua huyện Tam Dương, Lập Thạch, Sông Lô (tỉnh Vĩnh Phúc) và huyện Phù Ninh (tỉnh Phú Thọ) đã thông xe.
4. Bô xít Tây Nguyên
Tổ hợp bô xít Tây Nguyên gồm hai dự án Tân Rai và Nhân Cơ có công suất thiết kế giai đoạn I là 650.000 tấn alumin mỗi năm do Tập đoàn Công nghiệp Than khoáng sản VN làm chủ đầu tư. Nhà thầu Chalieco của Trung Quốc là đơn vị tổng thầu thi công. Nhà máy Tân Rai, Nhân Cơ lần lượt được khởi công vào năm 2008-2010 với tổng mức đầu tư lượt lên tới hơn 15.400 tỷ đồng và 16.800 tỷ đồng, tăng 3.800 tỷ đồng và 4.300 tỷ đồng so với dự kiến ban đầu.
Dự án bô xít Tây Nguyên ngay từ khi bắt đầu triển khai đã thu hút sự quan tâm của đông đảo dư luận bởi có nhiều ý kiến trái chiều về hiệu quả kinh tế - xã hội, môi trường và an ninh quốc phòng.
Dự án Tây Nguyên còn gây không ít quan ngại khi xuất hiện nhiều công nhân Trung Quốc tại công trường. Khu vực Lâm Đồng có khoảng 255 công nhân người Trung Quốc và cao điểm có khoảng 500 người sống tại khu nhà dành cho lãnh đạo nhà thầu, và công nhân. Ban quản lý dự án giải thích, sở dĩ dự án có lao động Trung Quốc vì đây là gói thầu EPC. Việc sử dụng, chọn lựa lao động do nhà thầu quyết định. Mặt khác dự án bô xít cũng khó tuyển lao động, do đó, công nhân Trung Quốc làm phù hợp hơn vi có công nghệ của Trung Quốc. Một số ý kiến lo ngại khả năng hình thành làng người Trung Quốc tuy nhiên ban quản lý khẳng định "đây là dự án của Việt Nam, tiền của Việt Nam, người Trung Quốc chỉ làm thuê".
Ngoài ra, nhà máy tại Tân Rai có thể lỗ khoảng 460 tỷ đồng trong 3 năm đầu, trong khi con số ở Nhân Cơ là 3.000 tỷ cho 6 năm nhưng chủ đầu tư vẫn tin có lãi nếu xét cả vòng đời 30 năm. Dự án alumin Tân Rai chính thức vận hành vào cuối tháng 9/2013 sau hơn một năm chạy thử. Theo chủ đầu tư, chất lượng cỡ hạt chưa phù hợp với nhu cầu thế giới và nhà máy đang trong gia đoạn chạy thử chưa ổn định cũng là nguyên nhân khiến lợi nhuận không được như kỳ vọng. Vinacomin cho rằng, khi cỡ hạt alumin được cải thiện, tương đương với cỡ hạt alumin giao dịch trên thị trường thế giới, giá bán sẽ được tăng lên. Do đó, hai dự án bô xít theo kế hoạch sẽ hoàn vốn trong 13 năm.
Vinacomin khẳng định, thị trường tiêu thụ sản phẩm alumin cũng không đáng lo ngại, bởi năm 2014, Vinacomin đã ký hợp đồng nguyên tắc tiêu thụ dài hạn sản phẩm alumin với Công ty Marubeni (Nhật Bản); Công ty Nhôm Vân Nam (Trung Quốc) và tiếp tục bán cho các đối tác khác.
5. Nhà máy gang thép Lào Cai
Dự án Nhà máy gang thép Lào Cai được khởi công vào cuối tháng 4/2008, với công suất một triệu tấn mỗi năm (lớn gấp 4 lần Nhà máy gang thép Thái Nguyên trước khi mở rộng) do Công ty TNHH Khoáng sản và Luyện kim Việt – Trung làm chủ đầu tư. Dự án có tổng mức đầu tư khoảng 340 triệu đôla, trong đó Việt Nam góp 55%. Đơn vị trúng thầu thi công xây dựng là Công ty TNHH khống chế cổ phần gang thép Côn Minh (Trung Quốc).
Dự án được chia thành 3 giai đoạn đầu tư. Giai đoạn 1 (2008 - 2009) xây dựng và vận hành phân xưởng luyện gang với công suất 1 triệu tấn mỗi năm; giai đoạn 2 (năm 2012) xây dựng xưởng luyện thép công suất 500.000 tấn phôi thép mỗi năm; giai đoạn 3 (năm 2015) xây dựng dây chuyền cán thép công suất 500.000 tấn thép một năm. Khi đi vào hoạt động cùng với mỏ Quý Sa, nhà máy sẽ tạo việc làm cho trên 1.200 lao động. Tuy nhiên, sau hơn 4 năm triển khai xây dựng, hiện dự án này đang chậm tiến độ.
Tháng 3/2013, Dự án nhà máy Dự án nhà máy gang thép Lào Cai gây xôn xao dư luận với thông tin nhà thầu Trung Quốc “bùng” tiền. Một nhà thầu phụ Trung Quốc sau khi ký hợp đồng mua vật liệu và thuê nhân công san ủi mặt bằng đã lặng lẽ rời khỏi công trường, để lại khoản nợ các cá nhân, đơn vị Việt Nam gần 5 tỷ đồng. Chủ đầu tư nhận định, lỗi thuộc đơn vị thi công, trong khi đó, phía Côn Minh cho rằng, hoạt động nhà thầu phụ do chủ đầu tư kiểm soát, không phải lỗi tại tổng thẩu.
6. Nhà máy nhiệt điện Duyên Hải I
 
 
Dự án Nhà máy nhiệt điện Duyên Hải 1 do EVN làm chủ đầu tư. Công trình thuộc Quy hoạch phát triển điện lực Quốc gia giai đoạn 2006 - 2015 có xét đến năm 2025 đã được Thủ tướng phê duyệt. Tổng vốn đầu tư dự án gần 1,6 tỷ USD, gói thầu EPC trị giá 1,3 tỷ đôla. Trong số vốn trên, dự án sử dụng 85% vốn vay thương mại do Ngân hàng Xuất Nhập khẩu Trung Quốc tài trợ và 15% vốn đối ứng của EVN.
Nhà máy nhiệt điện Duyên Hải I nằm trong Trung tâm Điện lực Duyên Hải thuộc tỉnh Trà Vinh gồm hai tổ máy, tổng công suất lắp đặt 1.244 MW. Sản lượng điện sản xuất hàng năm khoảng 7,2 tỷ kWh. Dự án do Nhà thầu Dongfang Electric Corporation Ltd. (DEC) làm tổng thầu EPC, Công ty CP Tư vấn Xây dựng Điện 2 cùng Tư vấn phụ nước ngoài là tư vấn giám sát thi công. Nhà thầu DEC đảm nhận vai trò thiết kế, cung cấp vật tư thiết bị và lắp đặt cho đến khi dự án đi vào hoạt động chính thức.
Dự án được khởi công năm 2010 và dự kiến vận hành tổ máy số I vào tháng 9/2014 và tổ máy số 2 vào tháng 11/2014. EVN cho hay, hiện tiến độ thi công các hạng mục của dự án đang bám sát tiến độ trong hợp đồng EPC, riêng phần lò hơi đang sớm hơn dự án khoảng một tháng.
7. Nhiệt điện Mông Dương 2
Dự án có công suất 1.200 MW gồm hai tổ máy được xây dựng tại tỉnh Quảng Ninh theo hình thức BOT. Thời gian khởi công năm 2011 và hoàn tất vào 2015.
Dự án có tổng mức đầu tư ước tính khoảng 1,95 tỷ USD, tăng 550 triệu đôla so với dự kiến ban đầu. Đây là là dự án BOT nhiệt điện thứ 3 đã thu xếp vốn thành công kể từ năm 2001 (sau 2 dự án BOT Nhiệt điện chạy khí Phú Mỹ 2.2 và Phú Mỹ 3). Hoạt động vận hành thương mại của nhà máy sẽ bắt đầu vào giữa năm 2015 và dự kiến chuyển giao cho Chính phủ Việt Nam sau 25 năm hoạt động.
Dự án do Tập đoàn AES của Mỹ liên doanh với Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam hợp tác từ tháng 11/2006. Tuy nhiên, đến tháng 3/2011, Tập đoàn công nghiệp Than Khoáng sản Việt Nam (Vinacomin) đã rút vốn khỏi dự án để đầu tư cho các công trình nhiệt điện trọng điểm khác. Sau khi Vinacomin xin rút khỏi dự án, Tập đoàn AES sẽ bán 49% cổ phần trong dự án Nhà máy điện Mông Dương 2 cho Tập đoàn Posco Power và Tập đoàn Đầu tư Trung Quốc.
Nhà đầu tư hiện tại của dự án là Tập đoàn AES của Mỹ (51%), Tập đoàn Posco Power (30%) và Tập đoàn Đầu tư Trung Quốc CIC (19%). Các hợp đồng thiết kế, mua sắm và xây lắp (EPC) theo kiểu chìa khóa trao tay đã được ký vào tháng 12/2010. Sau khi xây dựng hoàn tất (dự kiến vào tháng 7/2015),  Mông Dương 2 sẽ là dự án nhiệt điện đốt than đầu tiên đồng thời là dự án điện tư nhân lớn nhất của Việt Nam và sẽ đóng góp 7% tổng công suất hệ thống điện cả nước. Mông Dương 2 là một trong số ít các dự án có phía Trung Quốc góp mặt không chịu nhiều tai tiếng.
8. Nhà máy thuỷ điện sông Bung 4
Công trình do Công ty cổ phần Tư vấn Xây dựng điện 1 (thuộc EVN) là nhà thầu tư vấn thiết kế; Sinohydrro Corporation Limitted (Trung Quốc) là nhà thầu thi công công trình chính. Nhà thầu Trung Quốc đóng vai trò cung cấp thiết bị như tu bin máy phát... Khi lắp đặt thiết bị, Sinohydrro Corporation Limitted thường sử dụng nhân công của Trung Quốc.
Nhà máy thủy điện Sông Bung 4  nằm trên sông Bung thuộc huyện Nam Giang, tỉnh Quảng Nam, có tổng công suất lắp máy 156MW, tổng mức đầu tư gần 5.000 tỷ đồng, trong đó, huy động từ nguồn vốn vay Ngân hàng phát triển châu Á (ADB) 196 triệu USD. Dự án thủy điện Sông Bung 4 được xếp vào danh mục công trình trọng điểm Nhà nước là một trong 8 nhà máy thủy điện nằm trên hệ thống sông Vu Gia - Thu Bồn có quy mô lớn, chỉ tiêu kinh tế kỹ thuật tốt và được ưu tiên xây dựng sau 2 dự án thủy điện A Vương và Sông Tranh 2.
Công trình khởi công vào tháng 6 năm 2010 và theo kế hoạch, tổ máy số I nhà máy Thủy điện Sông Bung 4 sẽ vận hành vào tháng 10, tổ máy số 2 vận hành vào tháng 11 năm nay. Công trình dự kiến hoàn thành vào cuối năm 2014 đầu năm 2015. Mỗi năm sẽ cung cấp cho hệ thống điện quốc gia 586,25 triệu kWh và tạo ra doanh thu từ 450-500 tỷ đồng.
Cuối năm 2013, do đưa lao động người Trung Quốc chưa có giấy phép lao động vào làm việc tại công trình xây dựng nhà máy thủy điện Sông Bung 4, nhà thầu Sinohydrro Corporation Limitted đã bị phạt 570 triệu đồng.
9. Golden Westlake
Golden Westlake là khu căn hộ cao cấp với 2 toà tháp 23 tầng, nằm trên khu đất rộng 2 ha, tiếp giáp với đường Thụy Khuê và Hoàng Hoa Thám (Hà Nội).
Dự án dược khởi công vào cuối năm 2005 và hoàn thành vào cuối năm 2007 do Công ty TNHH Hà Việt - Tung Shing làm chủ đầu tư với vốn đầu tư khoảng 50 triệu đôla. Golden Westlake có thiết kế theo kiến trúc đối xứng và nối với nhau bằng hệ thống tầng trệt dành cho thương mại, công cộng như siêu thị mini; phòng tập thể thao với tắm hơi khô, ướt, bể tắm mát xa; nhà trẻ.
Chủ dự án Golden Westlake vừa qua gặp nhiều rắc rối khi xây dựng khu biệt thự liền kề và khu chung cư cao cấp đã gây ảnh hưởng trực tiếp tới hơn 100 hộ gia đình xung quanh, làm các căn nhà này bị sụt, lún, nứt, xô nghiêng... Một số hộ gia đình đã kiện chủ đầu tư với số tiền bồi thường 500 triệu đồng. Chủ dự án này đã gây sốc dư luận bằng việc bán chỗ đỗ xe với giá lên tới gần 1 tỷ đồng một chỗ. Ngay sau đó, dư luận và các hộ dân sinh sống tại đây phản ứng gay gắt buộc chủ đầu tư phải nhượng bộ, hạ mức phí gửi xe ôtô xuống 1 triệu đồng mỗi tháng.
10. Nhà máy dệt may tại khu công nghiệp Lai Vu
Tháng 8/2013, UBND tỉnh Hải Dương cho biết, Tập đoàn Crystal của HongKong (Trung Quốc) sẽ đầu tư khoảng 425 triệu USD vào dự án dệt Pacific Crystal và 120 triệu USD vào dự án may Tinh Lợi mở rộng, sử dụng khoảng hơn 70 hecta đất tại khu công nghiệp Lai Vu.
Theo đó, Dự án dệt Pacific Crystal có tổng vốn đầu tư 425 triệu USD – tương đương khoảng 8.882,5 tỷ đồng, sử dụng 35,1 ha đất và dự kiến thu hút khoảng 6.000 lao động. Dự án may Tinh Lợi mở rộng có vốn đầu tư 120 triệu USD – tương đương khoảng 2.340 tỷ đồng, sử dụng 35 ha đất, dự kiến thu hút khoảng 16.900 lao động, chủ yếu là lao động địa phương.
Hai dự án trên là tổ hợp dệt may lớn nhất Việt Nam và đã được tỉnh Hải Dương cấp giấy chứng nhận đầu tư. Khu công nghiệp Lai Vu được Tổng công ty Công nghiệp Tàu Thủy Việt Nam (nguyên là Tập đoàn Công nghiệp tàu thủy Việt Nam - Vinashin) xây dựng từ năm 2004. Khi Chính phủ tái cơ cấu Vinashin vào năm 2010, dự án được chuyển giao cho Tập đoàn Dầu khí Việt Nam nhưng nhiều hạng mục vẫn còn dang dở, gây khó khăn trong thu hút các dự án đầu tư.
Bên cạnh đó, việc giải phóng mặt bằng gặp vướng mắc do người dân khiếu kiện về quyết định thu hồi đất, mức bồi thường, hỗ trợ khi thu hồi đất nông nghiệp, dẫn tới khu công nghiệp còn nhiều diện tích đất bỏ hoang, khai thác kém hiệu quả. Sự tham gia của 2 dự án kỳ vọng sẽ giúp tỉnh Hải Dương khắc phục tình trạng đất bỏ hoang, làm hồi sinh khu công nghiệp Lai Vu.
Hoàng Lan – VNexpress.net

Nhật Bản ồ ạt rút đầu tư khỏi Trung Quốc

  - 

Quan hệ kinh tế Nhật - Trung xấu đi vì tình hình biển đảo
Quan hệ kinh tế Nhật - Trung xấu đi vì tình hình biển đảo
Trong lúc căng thẳng biển Đông leo thang do Trung Quốc đơn phương đặt giàn khoan Hải Dương (Haiyang Shiyou) 981 trái phép trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam và đâm chìm thuyền ngư dân Việt Nam, báo chí Trung Quốc vừa phải thừa nhận một đòn đau từ Nhật. Chính tờ Nhân dân nhật báo của Trung Quốc phải lên tiếng thừa nhận: “Đầu tư từ Nhật vào Trung Quốc giảm ồ ạt”.
Dữ liệu từ Bộ Thương mại Trung Quốc cuối tháng 5 cho thấy đầu tư của các công ty Nhật Bản tại Trung Quốc trong quý đầu tiên giảm 46,8% so với cùng kỳ năm trước. Tổ chức Ngoại thương Nhật Bản (JETRO) thống kê cho thấy năm ngoái các công ty Nhật Bản đầu tư 9 tỷ USD vào Trung Quốc và cũng là giảm 33 phần trăm so với năm trước nữa.
Ding Yibing, giáo sư Trường Kinh tế của Đại học Cát Lâm, cho biết đầu tư của Nhật vào Trung Quốc suy giảm là một xu hướng trong suốt ba năm qua. Li Tie, Phó Chủ tịch Hiệp hội Thương mại quốc tế của Trung Quốc (ITAC) , cho biết đầu tư đi xuống vì quan hệ Trung - Nhật đang xấu đi nghiêm trọng trong thời gian gần đây.
 Chi phí nhân công Trung Quốc ngày càng đắt đỏ
"Nhật Bản đang chuyển sang hữu khuynh và tranh chấp liên quan đến quần đảo Điếu Ngư (Senkaku) đã làm cho tình hình tồi tệ hơn, dẫn đến sự mất ổn định trong đầu tư và trao đổi thương mại", ông Li chua chát nói.
Các nhà đầu tư Nhật Bản đã từng bị thu hút bởi quy mô thị trường và tiềm năng tăng trưởng của Trung Quốc. Nhưng một sự thay đổi lớn chuyển hướng xuống Việt Nam và các nước Đông Nam Á (ASEAN) đã được hình thành, ông Minoru Arahata, Giám đốc chi nhánh Đại Liên của JETRO cho biết.
Số liệu thống kê của tổ chức cho biết các công ty Nhật Bản đầu tư 22,8 tỷ USD vào Việt Nam và các nước ASEAN khác như Singapore, Thái Lan, Indonesia, Malaysia, Philippines trong năm ngoái, cao gần gấp ba lần với đầu tư vào Trung Quốc dù Trung Quốc vẫn là đối tác thương mại lớn nhất của Nhật Bản.
 Nhật hợp tác ngày càng chặt chẽ với ASEAN
Ông Arahata nói với Tân Hoa Xã rằng chi phí đất đai và lao động ngày càng tăng của Trung Quốc đã dẫn đến sự quay lưng của các công ty Nhật Bản. Do đó, dòng đầu tư của Nhật chuyển hướng xuống phía Nam với các nước Đông Nam Á khác, nơi chi phí lao động tiết kiệm hơn nhiều.
Masahito Tasuda , giám đốc điều hành JETRO, cho biết đầu tư từ các doanh nghiệp Nhật Bản đã thay đổi cấu trúc không chỉ vì chi phí lao động ở Trung Quốc mà còn do những bất đồng giữa giữa hai nước trong vấn đề biển đảo.
Rõ ràng, người Nhật không thể ưa thái độ hung hăng của Trung Quốc trên biển như hiện giờ. Đầu tư cho Trung Quốc để Trung Quốc mạnh mẽ rồi gây hấn với Nhật không phải là điều người Nhật mong muốn. Thà Nhật đầu tư xuống phía Nam để giúp các đồng minh trong khu vực mạnh mẽ và đảm bảo an ninh trong khu vực còn tốt hơn.

Trung Quốc đề nghị 'đi đêm', Mỹ cắt ngắn cuộc họp

 - 

Trung Quốc đề nghị 'đi đêm', Mỹ cắt ngắn cuộc họp
Một quan chức quốc phòng Mỹ tiết lộ với nhật báo Washington Post cho biết, trong cuộc họp kín tại hội nghị Shangri-La, phái đoàn Trung Quốc đã đề nghị Mỹ “hãy cùng hòa giải và cùng hợp tác giữa quân đội các ngài với quân đội TQ”, song đã bị Bộ trưởng Chuck Hagel đáp trả bằng cách cắt ngắn cuộc họp.
Nguồn tin này cho biết, cuộc họp lẽ ra kéo dài, song cuối cùng đã kết thúc chỉ sau 20 phút sau khi đoàn TQ do trung tướng Wang Guanzhong – Phó tổng tham mưu trưởng quân đội TQ dẫn đầu, đưa ra lời đề nghị với hàm ý: nếu hợp tác, Mỹ và TQ sẽ chia nhau cai quản thế giới.
“Trong khi Wang phải đón nhận những lời chỉ trích kịch liệt thì phía TQ đã dành phần lớn của cuộc gặp để bàn đến việc “hợp tác và hòa giải”, và tập trung vào vấn đề tăng cường hợp tác giữa quân đội Mỹ và quân đội Trung Quốc” – tờ Washington Post viết. “Và những vấn đề “đáng quan tâm” do TQ đưa ra này đã khiến cuộc họp chỉ kéo dài vỏn vẹn 20 phút” – Washington viết tiếp, dẫn lời một quan chức quốc phòng Mỹ yêu cầu được giấu tên.
Washington Post cũng cho biết Mỹ đã yêu cầu TQ giải quyết cái mà TQ gọi là “tranh chấp” phải tuân thủ theo luật pháp quốc tế.
“Dù Mỹ đã nhấn mạnh với TQ rằng “Mỹ sẽ không đứng về bên nào” nhưng ông Hagel cũng nhắc cho TQ nhớ rằng Mỹ đã ký hiệp ước phòng thủ với nhiều quốc gia châu Á”. Washington Post viết. Và điều đó sẽ không ngăn cản chính phủ của ông Obama sử dụng sức mạnh quân sự để bảo vệ các đồng minh của mình theo như hiệp ước đã qui định.
Phát biểu với báo giới TQ sau đó, trưởng phái đoàn Wang đã “kết tội” Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ đã sử dụng ngôn từ “đe dọa” và “ngoài dự đoán” để công kích hành vi khiêu khích của Trung Quốc đối với các nước láng giềng ở Biển Đông.
“Những ngôn từ của Bộ trưởng Hagel ở hội nghị an ninh Châu Á là “nguy hiểm ngoài…. sự tưởng tượng” và “đầy chủ nghĩa bá quyền”,” – Trung tướng Wang Guanzhong nói với báo chí Trung Quốc.
Wang cũng cho rằng những lời chỉ trích của Hagel là “vô căn cứ”.
Về phần mình, các quan chức Bộ quốc phòng Mỹ cho biết ông Hagel đã có mục đích rõ ràng là sử dụng ngôn từ mạnh mẽ trong bài diễn văn để phê phán Trung Quốc gây bất ổn, có những hành động đơn phương trong việc tìm kiếm quyền kiểm soát đường hàng không, đường biển trong khu vực khi liên tục gây hấn với Nhật Bản, Philippines và Việt Nam.
“Chúng tôi không đặt vị trí của mình vào cuộc tranh chấp lãnh thổ này” – Hagel nói. “Nhưng chúng tôi chống đối bất kỳ việc một quốc gia nào đó sử dụng sự đe dọa, sự áp bức hoặc hăm dọa sử dụng vũ lực để khẳng định những yêu sách của mình”.

Tướng Trung Quốc xuyên tạc lịch sử ‘đường lưỡi bò’, đối đáp thô lỗ tại Shangri-La

Theo ghi nhận của phóng viên báo Tuổi trẻ, Phó tổng tham mưu trưởng quân đội Trung Quốc đã có một màn diễn thuyết và đối thoại dài cộc cằn thô lỗ trước cộng đồng quốc tế.

Tướng Vương Quán Trung tại Shangri-La. Ảnh: Tuổi trẻ

Trong bài diễn văn dài 10 phút, tướng Vương đã dành rất nhiều lời chỉ trích nặng nề Thủ tướng Nhật Shinzo Abe và Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Chuck Hagel - những người có những lời chỉ trích Trung Quốc “không thể tưởng tượng nổi” và tố ngược 2 vị quan chức này là những người gây hấn trước. Giáo sư Nick Bisley đến từ Đại học La Trobe (Úc) đã tỏ ra đầy ngạc nhiên về cách các cường quốc lớn đối thoại cứng rắn với nhau như vậy.

Nhưng điều đáng nói là, khi các đại diện các hãng thông tấn quốc tế truy vấn ông Vương Quán Trung về căn cứ pháp lý của đường “lưỡi bò” trên Biển Đông, như mọi diễn giả Trung Quốc trong các diễn đàn quốc tế khác, vị tướng này trả lời vòng vo, thậm chí còn khẳng định rằng, đường lưỡi bò này có từ hơn 2.200 năm trước! Vô lý hơn là tướng Vương đã phủ nhận luật pháp quốc tế khi cho rằng, Công ước Luật biển Liên Hiệp Quốc (UNCLOS) “không áp dụng đối với các đảo và biển ở biển Đông”.
 

Tàu CSB Việt Nam đã bị đâm thủng mạn trái ngày 1/6. Ảnh: Infonet

Lời phủ nhận giá trị UNCLOS trên Biển Đông của tướng Vương đã có mỗi liên hệ trực tiếp với diễn biến tại Hoàng Sa khi lần đầu tiên một tàu cảnh sát biển của Việt Nam đã bị tàu Trung Quốc đâm thủng. Ngày 2/6, tờ Bưu điện Hoa Nam dẫn lời Thứ trưởng Bộ Quốc phòng Nguyễn Chí Vịnh cho hay: Trung Quốc đã từng yêu cầu Việt Nam không đưa vấn đề tranh chấp hàng hải ra tòa án quốc tế. Tuy nhiên, nếu Trung Quốc tiếp tục chèn ép, Việt Nam sẽ không có lựa chọn nào khác và pháp lý là con đường hoàn toàn phù hợp với luật pháp quốc tế, tướng Vịnh khẳng định.
 02/06/2014 - 10:51
Thiết Sơn-Tổng hợp
http://songmoi.vn/the-gioi-thoi-su/tuong-trung-quoc-xuyen-tac-lich-su-%E2%80%98duong-luoi-bo%E2%80%99-doi-dap-tho-lo-tai-shangri-la

Âm mưu của Trung Quốc khi xây căn cứ trên đảo Gạc Ma

TRẦN NGHĨA SƠN- 01/06/14 06:00
(GDVN) - Tờ Hoàn Cầu Thời Báo, một tờ báo của Đảng cộng sản Trung Quốc, tiết lộ hôm 25/5 là Bắc Kinh đang cho xây dựng một đảo nhân tạo tại đảo đá ngầm Gạc Ma.
Hòn đảo nhân tạo sẽ do Viện Nghiên cứu và Thiết kế đóng tàu số 9 (NDRI), có trụ sở ở Thượng Hải triển khai. Vị trí hòn đảo nhân tạo dự kiến ở quanh bãi Gạc Ma, thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam. Bãi đá này bị Trung Quốc chiếm giữ trái phép từ năm 1988.
Trung Quốc đang xây dựng căn cứ ở Gạc Ma.
Tờ báo cho biết Trung Quốc dự kiến xây dựng các cơ sở quân sự, bao gồm một căn cứ không quân và cảng hải quân, trên hòn đảo nhân tạo. Hòn đảo sẽ được sử dụng với mục đích chính là tăng khả năng phản ứng nhanh cho các chiến hạm và lực lượng an ninh hàng hải của Trung Quốc nếu có sự cố xảy ra trong khu vực.
Mô hình đảo nhân tạo mà Trung Quốc đang xây ở Gạc Ma (Ảnh: gywb.cn)
Đảo đá ngầm Gạc Ma (tên anh ngữ là Johnson Reef) là một rạn san hô thuộc cụm Sinh Tồn. Đá Gạc Ma nằm cách đảo đá Cô Lin hơn 3 km về phía Đông Nam và đánh dấu điểm cuối ở phía Tây Nam của cụm đảo và bãi đá ngầm Sinh Tồn. Đặc điểm của Gạc Ma là rạn đá màu nâu và được bao quanh bởi vành đai san hô trắng. Chỉ có vài hòn đá nổi lên trên mặt biển còn phần lớn chìm dưới nước.
Hiện thực hóa “đường chín đoạn”

Đường chín đoạn (hay còn được gọi là “đường lưỡi bò”) đuợc cho là của Trịnh Tư Ước, nguyên là quan chức phụ trách Vụ Nội chính (chính phủ Trung Hoa Dân Quốc) tiện tay vẽ vào.

Đường chín đoạn được hình thành dựa trên cơ sở "đường mười một đoạn" của chính phủ Trung Hoa Dân Quốc. Đường mười một đoạn là đường quốc giới trên biển Đông do mười một đoạn liên tục tạo thành, xuất hiện công khai lần đầu tiên vào tháng 2/1948 trong phụ đồ "Bản đồ vị trí các đảo Nam Hải" của "Bản đồ khu vực hành chính Trung Hoa Dân Quốc" do Cục Phương vực Bộ Nội chính Trung Hoa Dân Quốc phát hành.

Nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa sau khi thành lập vẫn xác định cương vực trên biển Đông theo "đường mười một đoạn" của Trung Hoa Dân Quốc. Đến năm 1953 thì bỏ hai đoạn trong vịnh Bắc Bộ, trở thành "đường chín đoạn".

Đường chín đoạn bao trọn bốn nhóm quần đảo, bãi ngầm lớn trên biển Đông là quần đảo Hoàng Sa, Quần đảo Trường Sa, quần đảo Đông Sa và bãi Macclesfield với khoảng 80% diện tích mặt nước của biển Đông, chỉ còn lại khoảng 20% cho tất cả các nước Philippines, Malaysia, Brunei, Indonesia, và Việt Nam, tức mỗi nước được trung bình 4% (!)

Việc xây đảo nhân tạo tại Gạc Ma, ý đồ của Bắc Kinh là tăng cường khả năng kiểm soát thực tế đối với vùng biển phía nam của “đường chín đoạn”. Trên cơ sở đó thực hiện ý đồ thâu tóm gần như toàn bộ Biển Đông, biến nó thành “ao nhà” của Trung Quốc.

Ngoài ra, đảo nhân tạo còn có vai trò như một trạm hậu cần tiếp tế cho các tàu cá của Trung Quốc hoạt động trên Biển Đông. Đảo này có thể cũng sẽ có nhà tập thể, tòa nhà hành chính, sân thể thao và nông trại.

Thực hiện chiến lược chống tiếp cận 

Hiện nay, Trung Quốc được cho là đang hoàn thiện chiến lược chống tiếp cận/phong tỏa khu vực (viết tắt là A2/AD), với mục đích nâng cao năng lực phòng thủ - tấn công ở các vùng biển quanh mình, nhằm ngăn chặn hạm đội Mỹ áp sát để tấn công Trung Quốc hoặc hỗ trợ đồng minh.

Qua đó, Trung Quốc có thể duy trì thế mạnh so với các nước khác trong những vùng biển gần, và đẩy khu vực hoạt động của lực lượng Mỹ ra xa. Để triển khai hiệu quả học thuyết của mình, Trung Quốc tập trung xây dựng lực lượng phòng thủ ven bờ, tăng cường năng lực tàu ngầm, cải thiện khả năng phòng không, chiến tranh điện tử và phát triển tên lửa chống tàu, chẳng hạn như tên lửa đạn đạo DF-21D.
Sơ đồ mô tả chiến lược “chống tiếp cận” của Trung Quốc.

Trung Quốc định vị các vành đai phòng thủ này bằng các chuỗi đảo (first and second island chain). Chính vì vậy, tham vọng của Trung Quốc không chỉ nhắm đến các đảo nằm trong tranh chấp mà còn vươn tầm ngắm đến các đảo không hề có tranh chấp gì với Trung Quốc (nghĩa là hoàn toàn thuộc chủ quyền của nước khác)!

Việc xây dựng căn cứ trên đảo đá Gạc Ma cũng nằm trong ý đồ thực hiện chiến lược “chống tiếp cận” của Trung Quốc. Căn cứ này cho phép Trung Quốc nâng cao khả năng đe dọa đối với hạm đội 7 của Mỹ. Nó cũng giúp Trung Quốc dễ dàng hơn trong việc kiểm soát eo biển Malaca, gián tiếp uy hiếp Nhật Bản từ xa.

Việc xây căn cứ Gạc Ma thể hiện việc Trung Quốc muốn củng cố một lối ra Thái Bình Dương, chống lại sự bao vây của Hoa Kỳ. Đồng thời cũng nhằm ngăn chặn sự can thiệp của Mỹ vào vấn đề Biển Đông, khi có tình huống xung đột xảy ra.

Khống chế Trường Sa, uy hiếp Cam Ranh

Trong âm mưu lâu dài của Trung Quốc, họ sẽ tìm cách chiếm quần đảo Trường Sa của Việt Nam. Tuy nhiên, để làm việc này Bắc Kinh có một số vấn đề. Các đảo ở Trường Sa phần lớn có diện tích nhỏ, dễ chiếm nhưng khó giữ. Giả định Trung Quốc chiếm được thì họ phải duy trì một lực lượng lớn hải quân, không quân và các lực lượng mặt đất để bảo vệ. Đây là vấn đề đau đầu đối với các nhà hoạch định quân sự Trung Quốc. Nhưng nếu họ xây được căn cứ lớn tại Gạc Ma thì cơ bản giải quyết được vấn đề nêu trên.

Trong tình hình đó, Việt Nam sẽ gặp những bất lợi. Vì căn cứ hải - không quân Trung Quốc đặt tại Gạc Ma, tức ở ngay tại Trường Sa. Trong khi đó, khoảng cách từ căn cứ Cam Ranh ra Trường Sa khoảng từ 400 đến 600km. Ngoài ra, không quân Trung Quốc còn có thể chi viện cho Trường Sa bằng căn cứ trên đảo Phú Lâm, thuộc quần đảo Hoàng Sa.

Nếu Việt - Nhật – Phi liên minh với nhau, không quân Nhật Bản với các chiến đấu cơ tàng hình F-35 mua của Hoa Kỳ, có thể bố trí trên các căn cứ của Philippines gần quần đảo Trường Sa. Trong tình huống xảy ra chiến sự, không quân Việt – Nhật – Phi có thể phối hợp tạo thế “ba mũi giáp công”, thì mới có thể chiếm ưu thế trước không quân Trung Quốc.

Vì vậy, trong tình huống xảy ra xung đột, nếu chỉ một mình độc lập tác chiến, hải quân và không quân Việt Nam sẽ gặp rất nhiều khó khăn. Điều đó cho thấy, sự thay đổi trong công tác hoạch định chiến lược quân sự của Việt Nam là điều không thể không xét đến.

Hơn 30 cuộc ngoại giao, Trung Quốc vẫn chưa chịu rút giàn khoan

NGỌC QUANG- 30/05/14 07:03   
(GDVN) - Việt Nam sẽ cân nhắc và quyết định sử dụng các biện pháp pháp lý theo luật pháp quốc tế nhằm bảo vệ chủ quyền thiêng liêng của đất nước.

Trước sự ngang ngược của Trung Quốc, Việt Nam vẫn hết sức kiềm chế, bày tỏ mọi thiện chí, sử dụng mọi kênh đối thoại. Cho đến nay đã có hơn 30 cuộc giao thiệp với các cấp khác nhau của Trung Quốc để phản đối và yêu cầu Trung Quốc rút ngay giàn khoan và các tàu vũ trang, tàu quân sự ra khỏi vùng biển của Việt Nam.
Tuy nhiên, Trung Quốc không những không đáp ứng yêu cầu chính đáng của Việt Nam mà còn vu khống, đổ lỗi cho Việt Nam và tiếp tục dùng sức mạnh, gia tăng các hành động uy hiếp, xâm phạm ngày càng nguy hiểm và nghiêm trọng hơn.
Các tàu hộ tống bảo vệ giàn khoan của Trung Quốc đã rất hung hăng bắn vòi nước có cường độ mạnh và đâm húc thẳng vào các tàu công vụ, tàu dân sự của Việt Nam, gây hư hại nhiều tàu và làm nhiều người bị thương.
Bộ trưởng Nguyễn Văn Nên cho biết: “Thủ tướng chỉ đạo là phải làm thế nào đưa thông tin ra nước ngoài, tuyên truyền để nhân dân Trung Quốc và bạn bè thế giới hiểu được sự thật. Có nhiều người Trung Quốc ở nước ngoài cũng đã bày tỏ thái độ không hài lòng với những việc làm vừa qua của lãnh đạo Trung Quốc”.
Trung Quốc vẫn ngang ngược, chưa chịu rút giàn khoan 981 ra khỏi vùng biển Việt Nam.
Những ngày qua, dư luận Việt Nam và quốc tế cũng đặt ra câu hỏi: Liệu Việt Nam có nên liên kết với một nước khác để chống lại sự xâm phạm chủ quyền của Trung Quốc? Ông Trần Duy Hải - Phó Chủ nhiệm Ủy ban Biên giới quốc gia cho biết: “Việt Nam thi hành chính sách độc lập, tự chủ, không liên minh liên kết với quốc gia này chống lại quốc gia kia. Vì vậy ngay cả khi phải sử dụng các biện pháp pháp lý, chúng ta cũng không có sự phối hợp với bên thứ hai”.
Cũng theo ông Hải, ngay trong lĩnh vực đấu tranh pháp lý cũng rất phức tạp, có nhiều

Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng: “Lãnh đạo Việt Nam sẽ cân nhắc và quyết định sử dụng các biện pháp pháp lý theo luật pháp quốc tế nhằm bảo vệ chủ quyền thiêng liêng và lợi ích chính đáng của mình”.
hình thức đấu tranh khác nhau và tòa án cũng nhiều, thí dụ: Tòa án công lý quốc tế; Tòa án trọng tài; Tòa án luật biển. Hình thức cũng có rất nhiều như: kiện riêng hay tham gia vào một vụ kiện nào đấy.
“Chúng tôi đang tiếp tục nghiên cứu để tìm được phương án tối ưu nhất, dù bằng hình thức này hay hình thức khác thì cũng là nhằm bảo vệ lợi ích chính đáng của đất nước”, ông Hải khẳng định.
Kinh tế Việt Nam không lệ thuộc Trung Quốc
Trước tình hình căng thẳng trên, thời gian qua có những ý kiến lo ngại nền kinh tế Việt Nam sẽ chịu nhiều tác động tiêu cực từ Trung Quốc.
Về vấn đề này, Bộ trưởng Nguyễn Văn Nên chia sẻ, tại buổi họp của Chính phủ, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng nhận định: Trong thời đại toàn cầu hóa, hội nhập sâu rộng, lại đều là thành viên của WTO và các hiệp định hợp tác kinh tế khu vực; là hai nước láng giềng có nền kinh tế đang phát triển, đặc biệt Trung Quốc là nền kinh tế lớn thứ 2 thế giới nên hợp tác kinh tế, thương mại, đầu tư bình đẳng, cùng có lợi.
Việt Nam chủ trương tăng cường hợp tác kinh tế, thương mại và đầu tư với Trung Quốc, đồng thời mở rộng thị trường, đàm phán và tham gia nhiều khuôn khổ hợp tác mới, trong đó có nhiều hiệp định thương mại tự do với các đối tác lớn trên tế giới. Việc mở rộng và đa dạng hóa thị trường, tăng cường hợp tác kinh tế, thương mại, đầu tư với tất cả các đối tác trên thế giới nhằm giảm rủi ro, lệ thuộc của Việt Nam vào một thị trường nhất định, giúp nền kinh tế Việt Nam phát triển ổn định, bền vững.
Tại buổi họp báo Chính phủ, ông Đỗ Thắng Hải – Thứ trưởng Bộ Công thương đã giải tỏa nhiều lo lắng khi khẳng định, các hoạt động kinh doanh giữa Việt Nam và Trung Quốc trong thời gian qua hoàn toàn bình thường. Xuất nhập khẩu vẫn đang tăng trưởng tốt, đặc biệt là hai nhóm hàng quan trọng là nông lâm sản và công nghiệp chế biến tăng trưởng ở mức cao.
“Không phải đến bây giờ có sự việc này thì Đảng và Chính phủ mới tính đến các biện pháp tránh việc phải lệ thuộc vào một thị trường. Có một vấn đề là chúng ta nói rất nhiều, xuất siêu sang Trung Quốc 13 tỷ USD nhưng nhập siêu lên tới 30 tỷ USD. Để điều chỉnh thì chúng ta phải tăng xuất khẩu hoặc giảm nhập khẩu. Nhưng chúng ta nhập khẩu từ Trung Quốc chủ yếu là các mặt hàng để phục vụ sản xuất, sau đó lại xuất khẩu sang các thị trường khác như Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản... 4 tháng đầu năm 2014 xuất khẩu đã tăng 28,2% so với cùng kỳ năm ngoái. Chúng ta cũng đã tính tới các thị trường khác và đang phát triển tốt”, ông Hải khẳng định.

Hong Kong tưởng niệm biến cố Thiên An Môn

Rebecca Valli-01.06.2014
Dân Hong Kong tuần hành để tưởng niệm 25 năm vụ đàn áp đẫm máu của Trung Quốc tại quảng trường Thiên An Môn ngày 4 tháng 6 năm 1989, 1/6/14

 — Các cuộc biểu tình tại quảng trường Thiên An Môn là một bước ngoặt đối với Hong Kong, vào lúc thành phố này, năm 1989, chỉ còn 8 năm trước khi được trao trả cho Trung Quốc, sau 150 năm là thuộc địa của Anh. Hàng trăm ngàn người dân Hong Kong đã tuần hành để ủng hộ các cuộc biểu tình phản đối ở Hoa Lục và đã khóc khi người biểu tình bị đàn áp. Thông tín viên VOA Rebecca Valli tường thuật rằng cho đến hôm nay, Hong Kong là nơi duy nhất ở Trung Quốc mà các biến cố năm 1989 được tưởng nhớ đến một cách công khai.
 
Năm 1989, nhà thơ Meng Lang đang làm biên tập viên tại Đại học Thâm Quyến. Là một người gốc Thượng Hải, ông đã chuyển đến một trong những thành phố phát triển nhanh nhất của Trung Quốc. Ông nói thành phố miền nam gần Hong Kong là nơi duy nhất mở cánh cửa sổ cho phong trào sinh viên năm 1989. Ông nói:
 
“Thâm Quyến là nơi duy nhất ở Trung Quốc mà chúng tôi có thể tự do xem truyền hình tin tức từ Hong Kong. Nhà nào cũng có thể xem tin tức ở Hong Kong. Các cao ốc đều có ăng-ten, được gọi là “ăng-ten xương cá”, vì vậy chúng tôi biết mọi việc xảy ra cho phong trào sinh viên, từ các chết của ông Hồ Diệu Bang cho đến vụ đàn áp ngày 4 tháng 6.”
 
Ông Meng nói xem các tin tức truyền hình đó cho thấy sự hỗ trợ của Hong Kong thật không thể nào lầm lẫn:
 
“Đã có nhiều cuộc biểu tình. Họ quyên góp nhiều tiền để gửi cho sinh viên ở quảng trường Thiên An Môn. Vào năm 1989 Hong Kong đứng trước thực tế là sẽ được giao lại cho Trung Quốc trong 8 năm nữa, vì vậy dân chúng đã có một câu hỏi về điều đó.”
 
Ông Meng nói câu hỏi là liệu những quyền tự do mà thành phố này hưởng khi là thuộc địa của Anh có thể được duy trì dưới sự cai trị của Trung Quốc hay không.
 
21 năm sau, Hong Kong đã chuyển tiếp để trở thành phần đất của Trung Quốc, nhưng đã giữ được hệ thống pháp lý độc lập và tự do báo chí.
 
Đó cũng là phần đất duy nhất ở Trung Quốc nơi mà các biến cố mùa xuân năm 1989 được tưởng niệm hàng năm.
 
Hôm Chủ nhật, hàng ngàn người đã tham gia cuộc tuần hành tưởng nhớ biến cố ngày 4 tháng 6. Sin Ka Kuen, một sinh viên ở Hong Kong nói:
 
“Từ 25 năm nay Đảng Cộng sản Trung Quốc luôn từ chối nói về ngày 4 tháng 6. Đó là lý do vì sao năm nào chúng tôi cũng đến đây.”
 
Ông Deng một người đã 60 tuổi cũng tham gia cuộc tuần hành. Ông nói:
 
“Tôi sẽ dùng sức lực cuối cùng của mình để ghi nhớ phong trào dân chủ Trung Quốc.”
 
Năm nay Hong Kong sẽ quyết định về các chi tiết của phổ thông đầu phiếu vào năm 2017 và 2012.
 
Các nhà hoạt động ủng hộ dân chủ nói rằng Bắc Kinh đang tìm cách thông qua một điều luật loại trừ những tiếng nói bất đồng không cho tham gia ứng cử.
 
Ông Lee Cheuk Yan, một trong những người tổ chức cuộc tuần hành hôm Chủ nhật, nói:
 
“Ở Hong Kong, nơi chúng tôi vẫn còn chỗ, chúng tôi đến và phản đối. Và đó cũng là về Hong Kong, vì nếu có đàn áp ở Trung Quốc, họ cũng sẽ tìm cách can thiệp vào các quyền tự do của chúng tôi ở Hong Kong.”
 
Trong những tuần lễ dẫn đến ngày kỷ niệm Thiên An Môn, nhà cầm quyền Bắc Kinh đã bắt giữ các nhà họat động, các học giả và các nhà trí thức, vì những nỗ lực của họ tìm cách bí mật tưởng niệm những người đã chết năm 1989.
http://www.voatiengviet.com/content/hong-kong-tuong-niem-bien-co-thien-an-mon/1927228.html

Dàn "hỏa lực mồm" Trung Quốc ngụy biện tại Đối thoại Shangri-la

HỒNG THỦY- 02/06/14 06:54
(GDVN) - Tôi nghĩ rằng Trung Quốc đôi khi phải đối mặt với những thách thức khó khăn, đặc biệt là khi một số nước đơn phương khiêu khích làm thay đổi hiện trạng.


Bà Phó Oánh, trưởng đoàn Trung Quốc tại Đối thoại Shangri-la năm nay.

Tân Hoa Xã ngày 1/6 dẫn lời bà Phó Oánh, Chủ nhiệm Ủy ban đối ngoại Quốc hội Trung Quốc và là trưởng đoàn dự Đối thoại Shangri-la năm nay tuyên bố, nếu tự do và an ninh hàng hải trên Biển Đông quan trọng với Mỹ, thì nó còn quan trọng hơn đối với Trung Quốc. Bà Oánh cho rằng trên thực tế, Trung Quốc có sự hợp tác mạnh mẽ đảm bảo duy trì tự do và an ninh hàng hải ở Biển Đông.

Phó Oánh nói rằng bà rất "ngạc nhiên" trước một số phát biểu tại Đối thoại Shangri-la năm nay: "Chúng ta đang ở trong thế kỷ 21. Chúng ta không nên tiếp tục giữ tâm lý của thế kỷ 20 về chiến tranh và xung đột"?!

Bà Oánh tiếp tục luận điệu xuyên tạc, bóp méo sự thật khi nói rằng hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam (mà Bắc Kinh gọi là Tây Sa, Nam Sa) "được người Trung Quốc phát hiện đầu tiên hàng trăm năm trước khi bị Nhật Bản chiếm đóng trong Thế chiến II và Nhật đã 'trao trả' cho Trung Quốc theo Tuyên bố Cairo và Tuyên bố Potsdam"?!

"Tôi nghĩ rằng Trung Quốc đôi khi phải đối mặt với những thách thức khó khăn, đặc biệt là khi một số nước đơn phương khiêu khích làm thay đổi hiện trạng trong khu vực"?! Phó Oánh đã đổi trắng thay đen, nói không thành có.

Phó Tổng tham mưu trưởng Trung Quốc Vương Quán Trung.

Trước đòi hỏi của cộng đồng quốc tế và khu vực về việc tuân thủ luật pháp quốc tế ở Biển Đông và Hoa Đông như Thủ tướng Nhật Bản, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ nhận xét tại Shangri-la, bà Oánh ngụy biện: "Tôi ngạc nhiên trước mức độ thường xuyên sử dụng luật pháp quốc tế, và đôi khi cứ như họ đang sở hữu pháp luật".

Ông Vương Quán Trung, Phó Tổng tham mưu trưởng Trung Quốc thì tỏ ra tức giận với bài phát biểu của Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe là đã chỉ trích Trung Quốc một cách giấu mặt, cáo buộc sai trái và đi ngược lại tiêu chuẩn của quan hệ quốc tế.

"Đầu gấu" hơn là Chu Thành Hổ, một viên Thiếu tướng Trung Quốc tham dự Đối thoại Shangri-la đã thách thức, nếu Mỹ coi Trung Quốc là kẻ thù thì Trung Quốc sẽ trở thành kẻ thù thực sự của Mỹ. Ông Hổ cho rằng Mỹ đang phạm sai lầm chiến lược rất quan trọng ngay hiện tại?!

"Trung Quốc nhiều lần yêu cầu Việt Nam không được khởi kiện họ"

HỒNG THỦY- 02/06/14 05:48
(GDVN) - Phản ứng của chúng tôi phụ thuộc vào các hoạt động và hành vi của Trung Quốc. Nếu họ tiếp tục ép, chúng tôi không có lựa chọn nào khác.


Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng có cuộc tiếp xúc song phương với Phó Tổng tham mưu trưởng Trung Quốc Vương Quán Trung bên lề Đối thoại Shangri-la.

Bưu điện Hoa Nam ngày 2/6 đưa tin, Trung Quốc đã nhiều lần yêu cầu Việt Nam không đưa tranh chấp lãnh thổ, hàng hải ra tòa án quốc tế. Phát biểu bên lề Đối thoại Shangri-la, Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng cho biết: "Họ đã nhiều lần yêu cầu chúng tôi không đưa vụ việc ra tòa án quốc tế".
"Phản ứng của chúng tôi phụ thuộc vào các hoạt động và hành vi của Trung Quốc. Nếu họ tiếp tục ép, chúng tôi không có lựa chọn nào khác. Sự lựa chọn này (pháp lý) hoàn toàn phù hợp với luật pháp quốc tế", tướng Vịnh khẳng định. 
Phát biểu của ông được đưa ra sau khi Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tuyên bố, Việt Nam sẽ dùng mọi biện pháp hòa bình để bảo vệ lợi ích chính đáng và hợp pháp của mình, trong đó có biện pháp pháp lý.
Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh đã có cuộc tiếp xúc song phương với Phó Tổng tham mưu trưởng Trung Quốc Vương Quán Trung bên lề Đối thoại Shangri-la hôm Thứ Sáu. 
Người phát ngôn Bộ Quốc phòng Trung Quốc Dương Vũ Quân nói hai bên đã trao đổi thẳng thắn về quan điểm của mình, nhưng ông Quân không xác nhận liệu khả năng khởi kiện Trung Quốc có được nhắc đến trong cuộc họp hay không.
Tướng Vịnh cho biết, nhận xét của Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe và Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Chuck Hagel tại Đối thoại Shangri-la có giá trị và ý nghĩa lớn buộc Trung Quốc quay trở lại bàn đàm phán. 
Những nhận xét này cũng nhắc nhở ASEAN rằng giàn khoan 981 không phải là vấn đề của riêng Việt Nam mà còn cả các nước khác.